Chủ tịch Hồ Chí Minh trên bìa tạp chí TIME

19/05/2012

Tạp chí Time của Mỹ ra đời năm 1923. Trong hơn 85 năm qua, đã năm lần hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh xuất hiện trên trang bìa tạp chí này.

Đọc tiếp »


Cuốn sách đồ sộ về cuộc đời Bác Hồ ở Mỹ

23/04/2011

 “Chủ tịch Hồ Chí Minh có chỗ đứng trang trọng trong ngôi đền tưởng niệm các anh hùng cách mạng đã từng tranh đấu quyết liệt để gióng lên tiếng nói trung thực của những con người cùng khổ trên toàn thế giới. Người là một sự kết hợp sinh động: nửa Lênin, nửa Gandhi…”

Phỏng vấn GS William J. Duiker về tác phẩm “Ho Chi Minh a life”:

* Nguyên do nào khiến giáo sư lại đề tặng nhân dân VN cuốn sách về cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh?

– Tôi đề tặng cuốn sách này cho nhân dân VN vì tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của nhiều người Việt khi viết cuốn sách và cũng cho rằng nhân dân VN đã kinh qua bao gian khổ, cho nên sự đề tặng đó là thích hợp nhất.


GS William J. Duiker

Giữa 1960: từng là một viên chức ngoại giao phục vụ tại Nam VN và Đài Loan, sau chuyển sang công tác nghiên cứu và giảng dạy môn sử tại Đại học bang Pennsylvania, chuyên sâu về lịch sử hiện đại VN và Trung Quốc.

1997: về hưu nhưng vẫn còn giảng dạy ở Viện Đào tạo ngoại giao tại thủ đô Mỹ và hiện sống tại bang Bắc Carolina, Hoa Kỳ.

Đã viết nhiều cuốn sách có giá trị về VN vào năm 1981 (giải thưởng sách chọn lọc có giá trị nhất năm 1982-1983). Năm 1994 và 1995 với Cuộc chiến tranh thần thánh: chủ nghĩa dân tộc và cách mạng trong VN bị chia cắt.

Cuốn sách Hồ Chí Minh, một cuộc đời  (NXB Hyperion, New York, năm 2000) dày 700 trang được đánh giá là cuốn tiểu sử về Bác Hồ đầy đủ và có giá trị nhất ở Hoa Kỳ hiện nay. Để thực hiện công trình đồ sộ này, ông đã phải dành gần 30 năm đi lại nhiều nơi và đến VN nhiều lần thu thập tài liệu nghiên cứu và phỏng vấn những người còn sống và biết rõ về Bác Hồ.

* Có điều gì hấp dẫn trong cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh mà giáo sư lại dành gần 30 năm công sức đi lại nhiều nơi trên thế giới và nhiều lần đến VN để viết về tiểu sử Người?

– Qua kinh nghiệm bản thân ở VN trong những năm 1960, tôi cảm thấy người VN có được quyết tâm chiến đấu hi sinh cho chính nghĩa cách mạng chính là nhờ ở sự lãnh đạo tài giỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Càng nghiên cứu sâu về VN, tôi lại càng nhìn thấy Người là chiếc chìa khóa để ta có thể am hiểu được những gì đã xảy ra ở đó.

Đọc tiếp »


Bản yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Vécxây

10/04/2011

Tháng 6 năm 1919, nghe tin các đoàn đại biểu mười mấy nước Đồng minh chiến thắng họp ở Vécxây cách thủ đô Pari 14 km, Nguyễn Tất Thành bàn với nhà yêu nước Phan Châu Trinh và luật sư, tiến sĩ Phan Văn Trường viết bản ”Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi Hội nghị Vécxây.

Nhà yêu nước họ Phan trịnh trọng nói:

– Bảy điều yêu sách mà anh Thành nêu ra, theo tôi thật là xác đáng và đúng như bọn mình thường trao đổi với nhau. Chú Trường xem có nên thêm điều gì không?

– Tôi thấy thế là tốt… Thử xem còn vấn đề gì về quyền của nhân dân ta cần đòi…- Văn Trường nói và gõ nhẹ vào trán mình theo thói quen của ông khi cần suy tính một điều gì.

– Thưa hai bác – Tất Thành lên tiếng – Hôm trước cháu phác thảo ra 7 điều yêu sách đưa hai bác xem, nhưng đêm hôm qua cháu mới nảy thêm một ý. Cháu thấy rằng ở Đông Dương, bọn quan lại chỉ dựa vào các sắc lệnh của tên toàn quyền để cai trị dân ta mà không hề có luật. Cháu muốn đưa thêm một điều yêu sách nữa: “Thay thế chế độ sắc lệnh bằng chế độ luật pháp”.

– Đúng! Đúng. Luật sư họ Phan sôi nổi hưởng ứng. Muốn cho dân ta có tự do thì phải đòi họ cai trị theo luật pháp!

Tôi cũng tán đồng! Phan Châu Trinh nói như kết luận buổi gặp mặt. Bây giờ ta làm thế nào để chuyển bản Yêu sách tới Hội nghị Vécxây đây?

Đọc tiếp »


Yêu sách của Nhân dân An Nam (1919)

10/04/2011

Từ ngày Đồng minh thắng trận, tất cả các dân tộc bị lệ thuộc đều chứa chan hy vọng rằng theo những lời cam kết chính thức và trịnh trọng mà các cường quốc Đồng minh đã tuyên bố với toàn thế giới, trong cuộc đấu tranh của Văn minh chống Dã man, thì tiền đồ một thời đại công lý và chính nghĩa nhất định là phải đến với họ.

Trong khi chờ cho nguyên tắc dân tộc sẽ từ lĩnh vực lý tưởng chuyển vào lĩnh vực hiện thực do chỗ quyền tự quyết thiêng liêng của các dân tộc được thừa nhận thật sự, nhân dân nước An Nam trước kia, nay là xứ Đông – Pháp, xin trình với các quý Chính phủ trong Đồng minh nói chung và với Chính phủ Pháp đáng kính nói riêng, những yêu sách khiêm tốn sau đây:

Đọc tiếp »


Xuất bản lần ba Hồ Chí Minh toàn tập (15 tap)

30/01/2011

Sáng 17-1, NXB Chính Trị Quốc Gia – Sự Thật đã tổ chức lễ công bố bộ Hồ Chí Minh toàn tập xuất bản lần thứ ba. Bộ Hồ Chí Minh toàn tập xuất bản lần thứ ba gồm 15 tập, với trên 3.300 tác phẩm quan trọng, trong đó có bổ sung trên 800 tài liệu mới của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ năm 1912-1969 đã được xác minh và thẩm định.

Theo đại diện NXB, bộ Hồ Chí Minh toàn tập mới sẽ cung cấp thêm những tư liệu nêu lên những đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh với cách mạng thế giới. Trong bộ mới, những tác phẩm viết chung của Chủ tịch Hồ Chí Minh được để ở phần phụ lục. Các tác phẩm chưa có đầy đủ dữ kiện để xác định của Chủ tịch Hồ Chí Minh được xếp trong phần “Những tác phẩm có thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh” để bạn đọc tham khảo và góp phần xác minh thêm.

Đọc tiếp »


Nhà văn Sơn Tùng được đề nghị phong tặng danh hiệu “Anh hùng lao động”

15/12/2010

Hơi muộn, nhưng vẫn còn kịp, đó là việc Hội Nhà văn VN đang xúc tiến hồ sơ đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cho nhà văn Sơn Tùng, khi ông vừa qua những giờ khắc thử thách nghiệt ngã nhất của bệnh tật ở tuổi 83.

* Nhà văn Sơn Tùng: Hai ngón tay và hàng chục đầu sách

THIÊN AN

Tác giả “Búp sen xanh” – Sơn Tùng, đã sống một đời văn đáng tự hào, bằng nghị lực viết phi thường của một người thương binh nặng.
Tập nói ở tuổi 83

Đã năm tháng trôi qua kể từ ngày nhà văn trở bệnh nặng do vết thương cũ tái phát (ba mảnh đạn M79 găm vào đầu tại chiến trường Tây Ninh tháng 4.1971) trong thể trạng nguy kịch: Xuất huyết não, huyết áp rất cao, liệt nửa người. Tới thăm ông tại khu điều trị cấp cứu A9 Bệnh viện Bạch Mai vào ngày 30.6.2010, Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết – người bạn chiến đấu cũ của ông, đã xúc động nhắc lại kỷ niệm không thể quên giữa hai người trong giờ phút sinh tử: “Khi anh Sơn Tùng bị thương nặng, tôi là người đã cõng anh ấy đi cấp cứu” và căn dặn các bác sĩ: “Anh Sơn Tùng là nhà văn được nhân dân yêu mến. Các đồng chí hãy cố gắng hết sức để cứu chữa cho nhà văn Sơn Tùng”.

Đọc tiếp »


W.J.Duiker nói về tác phẩm “Hồ Chí Minh – một cuộc đời”

10/12/2010

Chúng tôi sẽ giới thiệu lần lượt từng phần công trình nghiên cứu công phu “Hồ Chí Minh – một cuộc đời” của W.J.Duiker. Tiêu đề do BBT đặt.

LỜI TỰA

Ông Hồ chí Minh đã thu hút tôi từ giữa những năm 1960s. Khi đó tôi là một cán bộ ngoại giao trẻ tuổi tại Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Saigon, và tôi đã rất ngạc nhiên thấy các du kích quân Việt Cộng chiến đấu trong rừng có vẻ có kỷ luật hơn và có tinh thần chiến đấu cao hơn quân đội của đồng minh của chúng tôi – chính phủ Nam Viêt Nam. Khi tôi tìm hiểu vấn đề này, tôi ngày càng tin rằng một lý do là vai trò của ông Hồ chí Minh, người động viên và nhà chiến lược bực thầy, nhà cách mạng lão thành của Việt Nam. Sau khi tôi không làm viên  chức cho  chính phủ nữa và chuyển sang làm học giả, tôi đã nghĩ đến việc viết một  tiểu sử của nhân vật phi thường và phức tạp đó, nhưng ít lâu sau tôi nhận thấy rằng tôi chưa có đủ tư liệu nguồn để mô tả cuộc sống và sự nghiệp của ông một cách thuyết phục. Do đó, tôi đã hoãn dự án này lại cho đến gần đây khi đã có thêm rất nhiều thông tin từ các nước trên thế giới khiến tôi tin rằng đây là lúc có thể tiến hành nhiệm vụ đó.

Quyển sách này đã được soạn thảo trong hơn 2 thập niên qua, và trong quá trình hoàn tất nó tôi đã nhận được sự giúp đỡ của một số nơi. Quỹ Nghiên cứu của Đại học Nghệ thuật Tự do và Viện Nghiên cứu Nghệ thuật và Nhân văn tai Đại học Bang Pennsylvania đã một số lần hỗ trợ tài chính để tôi nghiên cứu chủ đề này ở Pháp và Viêt Nam. Nhờ sự giúp đỡ của ông Mark Sidel, Quỹ Ford, tôi đã sung sướng cùng bà Marilyn Young và ông A.Tom Grunfeld đi thăm Hà-nội năm 1993 để tìm hiểu về mối quan hệ giữa ông Hồ chí Minh và Hoa Kỳ. Tôi cũng xin cám ơn Hội đồng Nghiên cứu Khoa học Xã hội và Chương trình Trao đổi  Học giả với Đông Dương thuộc Hội đồng trên đã cung cấp ngân sách cho tôi năm 1990 để nghiên cứu về ông Hồ chí Minh ở Hà-Nội. Trong thời gian đó, Viện Sử học, Trường Đại học quốc gia Hà-nội và Viện Mác Lê-nin đã vui lòng sắp xếp để tôi được thảo luận các chủ đề liên quan với các học giả và nghiên cứu viên quan tâm đến ông Hồ chí Minh và lịch sử cách mạng Việt Nam. Trước đó, năm l985 Viện Quan hệ Quốc tế đã bảo trợ một chuyến thăm của tôi, trong đó có cuộc viếng thăm lý thú đến làng Kim Liên, nơi sinh của ông Hồ Chí Minh. Trong số những người đã giúp đỡ tôi trong công tác nghiên cứu ở Hà Nội, tôi xin cám ơn ông Nguyễn Huy Hoan (Bảo Tàng Hồ chí Minh), ông Nguyễn Thanh (Bảo Tàng Cách mang), và ông Trần Thành (Viện Mác Lênin) và tất cả các vị đó đã đồng ý cho tôi phỏng vấn họ trong một thời gian dài. Tại Đại học Hà-Nội, các sử gia Phùng Hữu Phú, Lê Mậu Hân, Phạm Xanh và Phạm Công Tùng đã vui lòng dành thì giờ cho tôi và cung cấp cho tôi tài liệu nghiên cứu có liên quan đến cuộc đời và tư tưởng của ông Hồ chí Minh. Ông Hà Huy Giáp (nay đã qua đời) và ông Đặng Xuân Kỳ, lúc đó là Chủ nhiệm Uỷ ban Khoa học Xã hội đã vui lòng trả lời các câu hỏi của tôi về ký ức của các vị đó về Hồ Chủ tịch. Các ông Đỗ Quang Hưng, Ngô Phương Bá, Văn Tạo, Trần Hữu Đính (Viện Sử học) và ông Lưu Đoàn Huynh (Viện quan hệ quốc tế) đã rộng lượng giành thì giờ giúp tôi tìm hiểu những vấn đề then chốt trong dự án nghiên cứu của tôi. Tôi xin đặc biết cám ơn ông Vũ Huy Phúc, đã tháp tùng tôi và làm đối tác nghiên cứu cho tôi trong chuyến thăm năm 1990 và đã làm việc với thái độ kiên nhẫn và vui tính. Gân đây hơn, ông Hoàng Công Thuý (Hội Hữu nghị Việt Nam – Hoa Kỳ) đã giúp tôi liên hệ với một số cá nhân và nguồn tư liêu trong khi tôi tiếp tục tìm hiểu về ông Hồ Chí Minh. Ông Dương Trung Quốc (tạp chí Xưa và Nay) đã cung cấp cho tôi một số bài rất có ích của tập san đó. Ông Nguyễn Quốc Uy (Viêt Nam Thông tấn xã) đã vui lòng cho phép tôi đưa vào sách này một số ảnh thuộc bản quyển của Việt Nam Thông Tẫn Xã.

Đọc tiếp »


Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước kiểu mới

10/12/2010

TS. TRẦN NAM CHUÂN – Viện chiến lược, Bộ Quốc phòng

Một trong những tư tưởng lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là xây dựng một nhà nước kiểu mới – nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Đây là tư tưởng độc đáo, sáng tạo của Bác Hồ và của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đã được minh chứng và kiểm nghiệm trong lịch sử đấu tranh giành chính quyền và xây dựng chính quyền nhà nước dân chủ nhân dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà nước kiểu mới – nhà nước pháp quyền phải là nhà nước của dân, do dân và vì dân; đó là tư tưởng, ý chí nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người yêu nước, thương dân nồng nàn tha thiết. Người đến với chủ nghĩa Mác – Lê-nin bằng niềm tin mãnh liệt: “Bây giờ học thuyết nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất là chủ nghĩa Lê-nin” và con đường duy nhất mang lại độc lập cho dân tộc, tự do cho đồng bào là con đường cách mạng vô sản, dùng bạo lực cách mạng để giành chính quyền về tay nhân dân. Chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng như V.I.Lê-nin đã chỉ rõ: “Cùng với việc tổ chức xây dựng Đảng cách mạng thì trong cuộc đấu tranh này, trước hết phải có Đảng cách mệnh”(1), “Đảng có vững cách mệnh mới thành công”(2). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng nền tảng tư tưởng cho đường lối chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng. Trong đó tư tưởng của Người về vấn đề chính quyền nhà nước hình thành khá sớm và rõ nét. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong xây dựng nhà nước kiểu mới, trước hết bắt nguồn từ đường lối cách mạng của Đảng. Một mặt, Người khẳng định bản chất giai cấp công nhân của nhà nước, mặt khác Người cũng khẳng định sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân, tính chất nhân dân và dân tộc của nhà nước pháp quyền vì nó là đại diện cho toàn thể nhân dân và toàn dân tộc.

Đọc tiếp »


Những đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong các lĩnh vực hoạt động của UNESCO

01/12/2010

Katherine Muller-Marin

Tôi có mặt tại đây ngày hôm nay để hoàn thành sứ mệnh của nghị quyết được Đại hội đồng UNESCO thông qua tại khóa họp lần thứ 24 của cơ quan này tại Pa-ri năm 1987, về việc kỷ niệm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị anh hùng dân tộc và nhà văn hóa lớn. Đại hội đồng cho rằng việc thế giới kỷ niệm ngày sinh của những nhà văn hóa và trí thức kiệt xuất sẽ góp phần đạt được những mục tiêu của UNESCO và thúc đẩy sự hiểu biết giữa các quốc gia.

Đại hội đồng cũng coi Người là một biểu tượng nổi bật về tinh thần quả cảm của dân tộc bởi Người đã cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp giải phóng đất nước và dân tộc Việt Nam, qua đó góp phần vào cuộc đấu tranh chung của toàn nhân loại vì hòa bình, độc lập dân chủ và tiến bộ xã hội. Đại hội đồng cũng cho rằng những đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Người trong các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và nghệ thuật kết tinh truyền thống văn hóa của Việt Nam, một truyền thống có từ nhiều nghìn năm trước, và những lý tưởng của Người tiêu biểu cho khát vọng các dân tộc khác trên thế giới bởi họ đấu tranh nhằm khẳng định bản sắc văn hóa của mình và thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau.

Trên cơ sở những suy xét này, Đại hội đồng đã khuyến nghị các quốc gia thành viên tham gia vào việc kỷ niệm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh thông qua việc tổ chức các sự kiện thể hiện tưởng nhớ về Người nhằm phổ biến tầm vóc lớn lao của lý tưởng và sự nghiệp giải phóng dân tộc của Người.

Đọc tiếp »


Tổng giám đốc FPT học và làm theo Bác Hồ

29/11/2010

Câu chuyện của vị tổng giám đốc một tập đoàn tư nhân lớn cho chúng ta thấy những câu chuyện về Bác Hồ có thể ứng dụng vào nhiều lĩnh vực trong cuộc sống. Mời các bạn cùng đọc và cho bình luận.

Trước khi được biết đến với tư cách là giám đốc công ty phần mềm lớn nhất Việt Nam, ông Nguyễn Thành Nam (Tổng Giám đốc FPT) đã từng trải qua những giai đoạn khó khăn nhất và có những câu chuyện đáng để đời…

Đọc tiếp »


Tư duy kinh tế Hồ Chí Minh: Bác Hồ chỉ nói về mục tiêu kinh tế

27/11/2010

ĐOÀN DUY THÀNH

Trong Di chúc, Bác Hồ viết: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.

Nguyên Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đoàn Duy Thành lý giải vì sao trong Di chúc và trước tác của Hồ Chủ tịch chỉ nêu mục tiêu mà không nói đến quan điểm, phương pháp phát triển kinh tế đất nước.

Đọc tiếp »


Hồ Chí Minh – Bậc thầy về làm thương hiệu quốc gia

26/11/2010

HOÀNG ĐÌNH
Tạp chí Người đô thị

Nếu ví mỗi đất nước là một ngôi sao, các quốc gia trên thế giới sẽ là một bầu trời sao thì mỗi ngôi sao sẽ “lung linh” một vẻ khác nhau.

Ánh sáng lấp lánh của mỗi ngôi sao không thể ôm đồm theo “một rổ giá trị” này khác.

Đọc tiếp »


Giới thiệu sách: “Hồ Chí Minh – một cuộc đời” của William J Duiker

05/11/2010

“Chủ tịch Hồ Chí Minh có chỗ đứng trang trọng trong ngôi đền tưởng niệm các anh hùng cách mạng đã từng tranh đấu quyết liệt để gióng lên tiếng nói trung thực của những con người cùng khổ trên toàn thế giới. Người là một sự kết hợp sinh động: nửa Lênin, nửa Gandhi…”

Cuốn sách Hồ Chí Minh, một cuộc đời (NXB Hyperion, New York, năm 2000) dày 700 trang được đánh giá là cuốn tiểu sử về Bác Hồ đầy đủ và có giá trị nhất ở Hoa Kỳ hiện nay. Để thực hiện công trình đồ sộ này, tác giả đã phải dành gần 30 năm đi lại nhiều nơi và đến VN nhiều lần thu thập tài liệu nghiên cứu và phỏng vấn những người còn sống và biết rõ về Bác Hồ.

Website TheheHoChiMinh.net sẽ trích đăng một bản dịch của cuốn sách này. 

Đọc tiếp »


Tiểu luận: Tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành trong thời kỳ 1920 – 1930

05/11/2010

NGUYỄN BÁ SƠN
sonnb@thehehochiminh.net

Chủ tịch Hồ Chí Minh (1890 – 1969) là “Anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, Danh nhân văn hoá thế giới” (UNESCO – 1987), là “một trong một trăm nhân vật ảnh hưởng nhất thế kỷ XX” (TIME – 2005). Người là người con ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam. Điếu văn của BCH TW Đảng Lao động Việt Nam – 1969 viết: “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”.

Hồ Chủ tịch đã để lại cho dân tộc và nhân loại một di sản đồ sộ, vô cùng quý báu. Đó là cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trong kho tàng ấy, Tư tưởng Hồ Chí Minh giữ một vị trí đặc biệt. Cùng với Chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành “kim chỉ nam cho hành động” của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Đó là thứ vũ khí lý luận vô cùng sắc bén, là ngọn hải đăng soi đường chỉ lối cho dân tộc Việt Nam tiến về phía trước.

Việc nghiên cứu về Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng đã được tiến hành từ mấy chục năm nay với sự góp mặt của đông đảo các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Trong quá trình nghiên cứu ấy, các nhà lý luận một mặt làm rõ khái niệm, các nội dung cụ thể của Tư tưởng Hồ Chí Minh, mặt khác còn chia sự hình thành và phát triển của Tư tưởng Hồ Chí Minh thành những giai đoạn khác nhau. Việc phân kỳ các giai đoạn như vậy để ta hiểu sâu sắc các mốc phát triển quan trọng, nắm được nội dung tư tưởng quan trọng của Người trong từng thời kỳ. Đó không phải sự phân chia đứt đoạn bởi Tư tưởng Hồ Chí Minh là một quá trình phát triển liên tục, nhất quán, có kế thừa, phát triển, loại bỏ những quan điểm không phù hợp, có những luận điểm tư tưởng của Người được hình thành, bổ sung suốt đời. Vì vậy, tiêu chí cơ bản để phân kỳ là dựa vào nội dung chuyển biến về mặt tư tưởng của Hồ Chí Minh trong từng thời kỳ cụ thể chứ không phải dựa vào các mốc thời gian hoạt động của Người.

Đọc tiếp »


TRẦN DÂN TIÊN: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch (P6)

29/10/2010

TRẦN DÂN TIÊN

Đúng ba tuần sau khi tuyên bố Việt Nam độc lập, đêm 23 tháng 9 năm 1945 quân Pháp gây ra chiến tranh ở Nam bộ. Tư lệnh tối cao Đồng minh vạch nước Việt Nam ra hai vùng, phía Nam do quân đội Anh giải pháp quân Nhật, phía Bắc do quân đội Trung Quốc giải giáp quân Nhật.

Khi mới đến, quân đội Anh được nhân dân Nam bộ đón tiếp niềm nở vì tin vào hiến chương quốc Đại Tây Dương và Phranxixcô. Cũng như đồng bào cả nước, nhân dân Nam bộ bắt đầu hưởng tự do mới giành lại, và làm việc cho tương lai của đất nước.

Thình lình, chiều ngày 23 tháng 9 năm 1945, Tư lệnh Anh tuyên bố giới nghiêm Sài Gòn, cấm nhân dân đi ra đường.

Đến nửa đêm, với khí giới do quân Anh cung cấp và lợi dụng lệnh giới nghiêm, quân Pháp tấn công thành phố.

Chiến tranh Việt – Pháp bắt đầu.

Đây là một cuộc chiến tranh phản bội do thực dân Pháp gây ra. Một bên liên quân Pháp, Nhật, Anh, một bên chỉ có người Việt Nam.

Đọc tiếp »


TRẦN DÂN TIÊN: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch (P5)

29/10/2010

TRẦN DÂN TIÊN

Sau ngày mồng 9 tháng 3 năm 1945, Nhật tuyên bố Việt Nam độc lập, Bảo Đại tuyên bố bỏ chủ cũ là Pháp và theo chủ mới là Nhật.

Lập tức, Việt Minh ra một bản tuyên ngôn nói:

“Lời tuyên bố Việt Nam độc lập của Nhật là một sự lừa dối. Độc lập đây chỉ là một thứ độc lập giả hiệu. Chúng ta phải kiên quyết đấu tranh chống phát–xít Nhật để giành lại độc lập thật sự cho Tổ quốc”.

Lúc đó bọn Nguyễn Tường Tam theo Nhật, ngược đãi người Pháp, sát hại Việt Minh và bắt cóc, đi tống tiền.

Nhật đưa Trần Trọng Kim ra làm thủ tướng, sai Kim tổ chức một chính phủ và một quân đội bù nhìn để đi với quân đội Nhật đánh Việt Minh. Lúc bấy giờ Việt Minh đã kiểm soát bảy tỉnh ở miền Bắc Bắc Bộ. Đội quân của Kim bị Việt Minh tước khí giới. Với vũ khí này, du kích Việt Minh phát triển càng nhanh chóng và mạnh mẽ.

Một lần năm chiến sĩ du kích Việt Minh bắt hai mươi bảy xe tiếp tế của Nhật.

Đọc tiếp »


TRẦN DÂN TIÊN: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch (P4)

29/10/2010

TRẦN DÂN TIÊN

Từ mười hai năm nay, thực dân Pháp theo dõi ông Nguyễn. Từ tám năm nay, chúng lùng ông. Năm 1925 – 1927, chúng biết ông ở Quảng Châu, nhưng chúng không làm gì được. Vì ông được chính phủ cách mạng Trung Quốc và nhân dân Quảng Châu che chở. Trước và sau thời kỳ này, bọn gián điệp của Pháp không dò ra tung tích của ông.

Cùng bọn Anh, bọn Hà Lan và bọn Nhật, bọn Pháp tổ chức “mật thám quốc tế”. Mục đích của tổ chức này là dò xét những nhà cách mạng Triều Tiên, Nam Dương, Ấn Độ và Việt Nam.

Bọn đế quốc bịa đặt rằng những người cách mạng đó là tay sai của Quốc tế thứ 3, của Nga và nhiệm vụ của họ là phá hoại nền thống trị các nước.

Đế quốc Anh cho rằng ông Nguyễn là tay sai của Nga. Vì vậy những nhà cầm quyền Anh cũng cho ông là kẻ thù số một và cố bắt cho được ông.

Thực dân ở Đông Dương vui mừng thắng lợi, và ca tụng thực dân Anh, chính phủ Pháp hứa một số tiền rất lớn nếu Anh chịu trục xuất ông để Pháp đón bắt.

Đọc tiếp »


TRẦN DÂN TIÊN: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch (P3)

29/10/2010

TRẦN DÂN TIÊN

Thế là một lần nữa ông Nguyễn biệt tích.

Một lần nữa chúng tôi mất khâu chuyền.

Một câu châm ngôn Trung Quốc nói: “Một nhà hoạ sĩ vẽ giỏi không bao giờ vẽ nguyên cả một con rồng, mà vẽ con rồng khi ẩn khi hiện giữa những đám mây”.

Chúng tôi không phải là những nhà hoạ sĩ có tài.

Chúng tôi không để những đám mây trong tiểu sử của Hồ Chủ tịch, nhưng đến đây thì chúng tôi phải thú thật rằng đã mất mối câu chuyện.

Đọc tiếp »


TRẦN DÂN TIÊN: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch (P2)

29/10/2010

TRẦN DÂN TIÊN

Đức bị đánh bại. Chiến tranh chấm dứt. Vua Đức trốn sang Na Uy và ở đây vua làm nghề xẻ gỗ. Đảng Cộng sản Bôn–sê–vích và Lê–nin đã lãnh đạo công nông Nga nổi dậy. Cách mạng tháng Mười thành công. Những đoàn đại biểu các nước thắng trận và các nước bại trận đến Véc–xây họp Hội nghị hoà bình. Bên cạnh những đoàn đại biểu chính thức, có nhiều đoàn đại biểu thay mặt cho các dân tộc bị áp bức. Họ tới là vì nghe có 14 điểm của tổng thống Mỹ Uyn–sơn (Wilson). Có cả người Ailen, người Ấn Độ, người Triều Tiên, người Ả Rập v.v. Họ đến để yêu cầu độc lập tự do. Trong số đó, người ta thấy có ông Nguyễn Ái Quốc (tức là anh Ba).

Ông Nguyễn liên lạc với các đoàn đại biểu Triều Tiên, Ái Nhĩ Lan và các đoàn đại biểu khác. Ông Nguyễn tổ chức nhóm người Việt Nam yêu nước ở Pa–ri và ở các tỉnh Pháp. Với danh nghĩa của tổ chức này, ông đã đưa những yêu cầu ra trước hội nghị Véc–xây.

Đọc tiếp »


TRẦN DÂN TIÊN: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch (P1)

15/10/2010

TRẦN DÂN TIÊN

Nhiều nhà văn, nhà báo Việt Nam và ngoại quốc muốn viết tiểu sử của vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhưng mãi đến nay, chưa có người nào thành công. Nguyên nhân rất giản đơn: Chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn nhắc lại thân thế của mình.

Ngày mồng 2 tháng 9 năm 1945, lần đầu tiên tôi trông thấy Hồ Chủ tịch. Đó là một ngày lịch sử. Ngày hôm ấy, đứng trước rất đông quần chúng hoan hô nhiệt liệt, Hồ Chủ tịch trang nghiêm đọc bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Ngày thứ hai tôi viết thư xin phép được gặp Hồ Chủ tịch. Ngay chiều hôm ấy, tôi rất sung sướng nhận được thư trả lời của Hồ Chủ tịch viết như thế này:

“Ngày mai 7 giờ 30 mời chú đến”
Ký tên: HỒ CHÍ MINH

Thư trả lời chóng, nội dung thư giản đơn và giờ hẹn gặp sớm khiến tôi rất băn khoăn.

Đọc tiếp »


Chủ tịch Hồ Chí Minh hình ảnh dân tộc

23/09/2010

PHẠM VĂN ĐỒNG

Hồ Chủ tịch là người cha già của dân tộc Việt Nam. Ngót ba mươi năm bôn ba bốn phương trời, Người vẫn giữ thuần túy phong độ, ngôn ngữ, tính tình của một người Việt Nam. Ngôn ngữ của Người phong phú, ý nhị như ngôn ngữ dân quê Việt Nam; Người khéo dùng tục ngữ, hay nói ví, thường có lối châm biếm kín đáo và thú vị. Làm thơ, Người thích lối ca dao vì ca dao là Việt Nam cũng như núi Trường Sơn, hồ Hoàn Kiếm hay Đồng Tháp Mười vậy.

Mấy mươi năm xa cách quê hương, Người không quên mùi vị những thức ăn đặc biệt Việt Nam như cà muối, dưa chua, tương ớt, và ngày thường bây giờ, Người vẫn ưa thích những thứ ấy. Ngay sau khi về nước, gặp Tết, Người không quên mừng tuổi đồng bào hàng xóm và quà bánh cho trẻ em, tuy chỉ có mấy đồng xu, nhưng cũng bọc giấy hồng đơn cẩn thận, tươm tất. Bình sinh như thế, đứng địa vị Chủ tịch Chính phủ kháng chiến kêu gọi quốc dân, Người dùng những lời nói thống thiết đi sâu vào tâm hồn Việt Nam: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước thì thương nhau cùng”.

Lối ăn ở của Hồ Chủ tịch giản dị như thế nào, chúng ta đã từng biết. Lúc ở chiến khu, Người sống chung với anh em trong một cơ quan, làm việc, học tập, ăn ở, sinh hoạt nhất nhất như anh em. Kể ra, Người có chỗ được biệt đãi: đó là bát nước cơm mà anh Lộc, đồng chí cấp dưỡng lành nghề và thân mến của chúng tôi lúc bấy giờ, bao giờ cũng để dành riêng cho Người, từ biên giới Cao Bằng cho đến Tân Trào, trước khi về Hà Nội. ở Hà Nội, Chủ tịch Chính phủ có phòng làm việc, phòng tiếp khách, nhiều khi chủ tọa những bữa tiệc long trọng, nhưng bình thường ngày hai bữa, Chủ tịch Chính phủ cùng nhân viên đều ăn chung. Nhiều lần, vì đến quá trễ, thức ăn không còn gì, Hồ Chủ tịch vẫn vui cười ăn đủ mấy bát cơm như thường lệ.

Đọc tiếp »


President Ho Chi Minh, the image of the nation

17/09/2010

PHAM VAN DONG

In daily life, President Ho is a very simple and honest man. A great man, a really great man is always simple and honest. A mannered man always lacks capability; his play acting is for deceiving people and future generations. King Nghieu, King Thuan, Jesus Christ were simple and honest men. Lenin, Sun Yat Sen and Mahatma Gandhi were also simple and honest men. So are great scientists and great writers. On the contrary, Hitler was a perfidious man. Besides Hitler, Mussolini was but a clown.

Looking at some photos of President Ho, some persons say that his eyes have two pupils each and believe that because of that he is a genie. How can there be such an incredible story! President Ho’s eyes are like those of other men but they can see much more clearly than those of other men. The President knows how to look at things; he can see what other men cannot see: present and future things, great and small things.

President Ho is a Vietnamese, more Vietnamese than any other Vietnamese. After nearly thirty years of travelling to all parts of the world, he still preserves the manner, the language, the sentiments of a Vietnamese. His language is rich and witty like that of a Vietnamese peasant; he makes good use of proverbs and likes comparisons. He composes poetry generally in the form of folk songs because folk songs are specifically Vietnamese in the same way that the Truong Son Range, the Restored Sword Lake, the Dong Thap Muoi (the Plain of Reeds) are specifically Vietnamese (1). Having lived tens of years far from his native land, he does not forget the smell and taste of Vietnamese particular foods such as pickled aubergines, pickled vegetables, soya bean sauce with chilly that he ate daily. After his return to the country, on New Year’s Day, he does not forget to make congratulations to his neighbours (2) and to give presents (sweets and cakes) to children.

Đọc tiếp »


UNESCO đã vinh danh Chủ tịch Hồ Chí Minh như thế nào?

06/09/2010

PHẠM CÔNG KHÁI (Bảo tàng Hồ Chí Minh)

Bảo tàng Hồ Chí Minh đã tìm được văn bản gốc Nghị quyết của UNESCO về kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Khóa họp Đại hội đồng UNESCO lần thứ 24 tại Paris (20/10 – 20/11/1987) đã thông qua Nghị quyết 24C/18.65 về kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là “Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”, vào năm 1990.

Nghị quyết quan trọng này khẳng định những đóng góp quan trọng và nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã, góp phần quan trọng vào việc tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc…

Đọc tiếp »


Bức ảnh có chữ ký của Cụ Hồ và Võ Nguyên Giáp

03/09/2010

Nhà Sử học Dương Trung Quốc

Dòng lưu bút viết dưới bức ảnh với chữ ký của Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp dành tặng cho một người bạn nước ngoài và sau này được sưu tập lại từ một cuốn sách biên khảo về lịch sử hiện đại Việt Nam của nhà sử học Australia gốc Mỹ, ông David Marr, đã khiến nhiều người đặt câu hỏi về tác giả của nó và thời điểm chụp, còn hai nhân vật trong ảnh thì là những gương mặt quá nổi tiếng lại có chữ ký rất dễ nhận biết.

Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp trên chiếc xe đến Quảng trường Ba Đình

Cuối cùng thì sau khi bức ảnh này được công bố, nhà báo Vũ Hạnh Hiên, nay đã quá cố đã phát hiện ra. Đó là nhà nhiếp ảnh cũng rất nổi tiếng: Võ An Ninh (nay cũng đã qua đời). Nhà nhiếp ảnh kể lại với nhà báo rằng vào Ngày Độc lập, 2/9/1945, dân cả Hà Nội ai cũng muốn ra đường làm một việc gì đó. Võ An Ninh cầm máy ảnh quyết làm sao chụp cho được ảnh Cụ Hồ trên kỳ đài nhưng không được vì đông quá khó tiếp cận.

Đọc tiếp »


Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng qua một số tư liệu gốc tại bảo tàng cách mạng Việt Nam

03/09/2010

ThS Triệu Văn Hiển
Giám đốc Bảo tàng Cách mạng Việt Nam

Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lãnh tụ vĩ đại của Đảng Cộng sản Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc,Danh nhân văn hoá thế giới đã về với cõi vĩnh hằng được gần 36 năm. Người ra đi, nhưng đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một di sản vô cùng to lớn – đó là tư tưởng về đạo đức cách mạng.

Có thể nói rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng được bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, nền đạo đức đã được hình thành hàng ngàn năm suốt chiều dài lịch sử dân tộc và kế thừa tư tưởng đạo đức phương Đông cũng như tinh hoa đạo đức của nhân loại và dựa trên nền tảng tư tưởng đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Song, với tư duy độc lập và sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa có chọn lọc những giá trị đạo đức của quá khứ, đề xuất những tư tưởng đạo đức mới, phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Thông qua các tác phẩm, các bút tích gốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đang được lưu giữ tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, chúng ta có thể nhận thấy trong lĩnh vực đạo đức cách mạng, Người thường sử dụng nhiều khái niệm, phạm trù của các tư tưởng đạo đức đã có từ trước như trung, hiếu, nhân, nghĩa, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư đã có trong Nho giáo từ mấy trăm năm trước Công nguyên; Hoặc các khái niệm tự do, dân chủ, bình đẳng, bác ái… xuất hiện tại Tây Âu từ thời Hy-La cổ đại. Song Chủ tịch Hồ Chí Minh đã “Việt Nam hoá” thành các khái niệm đơn giản dễ hiểu, dễ thực hiện và gần gũi hơn với cán bộ và nhân dân lao động.

Đọc tiếp »


Hiến pháp 1946 với tư tưởng pháp quyền

03/09/2010

TS Nguyễn Sĩ Dũng

Nếu pháp quyền là những nguyên tắc và phương thức tổ chức quyền lực sao cho lạm quyền không thể xảy ra và quyền tự do, dân chủ của nhân dân được bảo vệ thì Hiến pháp năm 1946 đã phản ánh đúng tinh thần đó.

60 năm đã trôi qua kể từ mùa thu năm ấy. Sống mãi với thời gian là các giá trị của Cách mạng tháng Tám: độc lập, tự do, dân chủ. Sống mãi với thời gian là tư tưởng pháp quyền kết tinh trong bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Bản hiến pháp đó còn được gọi là Hiến pháp 1946.

Hiến pháp 1946 là một bản hiến văn hết sức ngắn gọn, súc tích. Toàn bộ bản hiến văn chỉ gồm 70 điều. Trong đó có những điều chỉ vẻn vẹn một dòng. (Ví dụ Điều 12 được viết như sau: “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm”). Một trong những lý do giải thích sự ngắn gọn này là: Hiến pháp 1946 đã được thiết kế theo tư tưởng pháp quyền.

Đọc tiếp »


Hiến Pháp 1946

03/09/2010

HIẾN PHÁP NĂM  1946

CỦA NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA

(Được Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa

thông qua ngày 09 – 11 – 1946)

____________

LỜI NÓI ĐẦU

Cuộc cách mạng tháng Tám đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hòa.

Sau tám mươi năm tranh đấu, dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi vòng áp bức của chính sách thực dân, đồng thời đã gạt bỏ chế độ vua quan. Nước nhà đã bước sang một quãng đường mới.

Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ.

Được quốc dân giao cho trách nhiệm thảo bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Quốc hội nhận thấy rằng Hiến pháp Việt Nam phải ghi lấy những thành tích vẻ vang của Cách mạng và phải xây dựng trên những nguyên tắc dưới đây:

– Đoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo;

– Đảm bảo các quyền tự do dân chủ;

– Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.

Với tinh thần đoàn kết, phấn đấu sẵn có của toàn dân, dưới một chính thể dân chủ rộng rãi, nước Việt Nam độc lập và thống nhất tiến bước trên đường vinh quang, hạnh phúc, cùng nhịp với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hòa bình của nhân loại.

Đọc tiếp »


Một số lời dạy của Bác Hồ về đạo đức lối sống

03/09/2010

“Đối với mình – Phải siêng nǎng, không được lười biếng, ai lười biếng không làm được việc. Phải tiết kiệm, không xa xỉ, vì xa xỉ hoá ra tham lam, nhất là đối với tiền bạc của đoàn thể phải rất phân minh”.

Con đường giải phóng. Tháng 12 nǎm 1940.
Tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh

“Học cái tốt thì khó, ví như người ta leo núi, phải vất vả, khó nhọc mới lên đến đỉnh.
Học cái xấu thì dễ, như ở trên đỉnh núi trượt chân một cái là nhào xuống vực sâu.

Mấy nǎm kháng chiến, các cô, các chú đã học được nhiều đức tính tốt. Về xuôi nhất là về thành thị, sẽ có nhiều người phức tạp, nhiều thứ quyến rũ mình vào thói xấu”.

Bài nói chuyện với bộ đội, công an và cán bộ trước khi vào tiếp quản Thủ đô.
Ngày 5 tháng 9 nǎm 1954.T.7, Tr.346

Đọc tiếp »


THĂM MỘT CHIẾN SĨ QUỐC TẾ CỘNG SẢN – NGUYỄN ÁI QUỐC

03/09/2010

O. MANĐENXTAM

Tại Đông Dương, ảnh hưởng phong trào Găngđi như thế nào? Tiếng vang, làn sóng của phong trào đó có lan đến đấy chút nào không ? – Tôi hỏi Nguyễn Ái Quốc.

– Không. – Nguyễn Ái Quốc trả lời – Nhân dân An Nam chúng tôi là những người nông dân bị nhấn chìm trong bóng đêm hết sức tối tăm. Không một tờ báo nào, không ai hiểu bây giờ trên thế giới đương diễn ra những gì; đêm tối, thực sự là đêm tối.

Nguyễn Ái Quốc hiện là người An Nam duy nhất ở Mátxcơva, đại diện của chủng tộc Mã Lai cổ xưa. Đó là một thanh niên gầy gò, linh hoạt, mặc cái áo len đan. Đồng chí nói tiếng Pháp – tiếng của những kẻ áp bức, nhưng mà những chữ Pháp từ miệng đồng chí Nguyễn Ái Quốc nghe trầm trầm, lắng xuống như hồi âm của tiếng mẹ đẻ quê hương đồng chí.

Nguyễn Ái Quốc đã nói đến hai chữ “văn minh” một cách đầy khinh bỉ. Đồng thời đã đặt chân qua hầu hết các nước thuộc địa trên thế giới, đã tới miền Bắc và miền Trung châu Phi, đã thấy rất nhiều cảnh đau khổ. Khi nói chuyện, đồng chí thường hay dùng chữ “anh em”. Anh em của Nguyễn Ái Quốc ở đây là những người da đen, những người Ấn Độ, những người Xyri, những người Trung Quốc…

Đọc tiếp »


Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về trí thức

03/09/2010

Theo Tạp chí Xây dựng Đảng
tháng 11/2004

Là một bộ phận trong lực lượng cách mạng, trí thức có nhiệm vụ thi đua phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Vì vậy, Đảng và Chính phủ ta rất quý trọng những người trí thức của nhân dân, vì nhân dân.
Hồ Chí Minh toàn tập, NXBCTQG, H.2002, tập 8, tr.216.

Địa vị những người trí thức ái quốc Việt Nam sẽ là cùng với toàn thể đồng bào, kiến thiết một nước Việt Nam mới, một nước Việt Nam thống nhất và độc lập, dân chủ, tự do, hạnh phúc.
Sách đã dẫn (Sđd), tập 5, tr.156.

Trí thức đáng trọng là trí thức hết lòng phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân.
Sđd, tập 7, tr.33.

Đọc tiếp »


Phó TGĐ UNESCO: “Tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn giữ nguyên giá trị thời đại”

03/09/2010

Hans D’Orville

“Chính vì tầm vóc vĩ đại của con người Hồ Chí Minh mà chúng ta đã vinh danh Người ở UNESCO và trên thế giới” – ông Hans D’Orville, Phó tổng giám đốc Tổ chức UNESCO tuyên bố.

Nhân buổi lễ mít tinh tại Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp tối 14/5, để kỷ niệm lần thứ 120 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890 – 19/5/2010) và 20 năm ngày Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên Hiệp quốc (UNESCO) công nhận Người là “ Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hoá kiệt xuất của Việt Nam”, ông Hans D’Orville, Phó tổng giám đốc Tổ chức UNESCO, đã có bài tham luận đặc biệt đánh giá về Tư tưởng Hồ Chí Minh. Sau đây là hoàn toàn bài tham luận của ông:

Đọc tiếp »


Hồ Chí Minh với Trung Quốc

02/09/2010

Dương Danh Dy

Lời giới thiệu của NBS: “Hồ Chí Minh với Trung Quốc” là đề tài tôi quan tâm thời gian gần đây. Những diễn biến trong xung đột về lãnh thổ và kinh tế, sự “trỗi dậy” của Trung Quốc đặt ra cho chúng ta câu hỏi: nên như thế nào khi làm hàng xóm của một nước lớn? Chúng ta có thể học hỏi gì trong cách ứng xử của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Trung Quốc khi xưa?

Tôi có tìm cuốn “Hồ Chí Minh với Trung Quốc” của GS Hoàng Tranh (Trung Quốc), tiếc là chưa tiếp cận được. Nay nhà nghiên cứu Dương Danh Dy có viết bài dưới đây, chỉ là một vài suy nghĩ của ông, chưa phải là một nghiên cứu hoàn chỉnh, nhưng tôi nghĩ cũng đáng để chúng ta quan tâm.

Xin giới thiệu cùng thầy cô và các bạn!

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác Hồ đã đi tới nhiều nơi trên thế giới, nhưng có lẽ Trung Quốc là một trong mấy nước Bác lui tới nhiều lần nhất, sinh sống ở đó trong thời gian dài nhất, có cống hiến rất lớn cho phong trào cách mạng cũng như để lại ở đó nhiều tình cảm nhất.

Trong bài viết nhỏ nhân dịp kỷ niệm lần thứ 120 ngày sinh của Bác này, tôi không dám đề cập tới mọi vấn đề mà chỉ muốn nhắc tới một vài bài học từ Bác mà trong quá trình nghiên cứu về Trung Quốc tôi không bao giờ dám quên.

Đọc tiếp »


Chuyện ít người biết về Tuyên ngôn độc lập

02/09/2010

ĐOAN TRANG

Bản Tuyên ngôn độc lập mở đầu bằng một đoạn trích dẫn từ Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ. Điều mà nhiều người chưa biết là Bác đã trích nguyên văn câu ấy từ văn bản hay lấy từ trí nhớ của mình và Bác đã làm những việc đó như thế nào trong quá trình viết tuyên ngôn.

Một trong những người đặt ra câu hỏi đó là nhà sử học, nhà văn Mỹ Lady Borton. Nguyên là một giáo viên dạy toán nên cách nghiên cứu lịch sử của bà có sự cẩn trọng, logic và chặt chẽ đến từng chi tiết, có độ rõ ràng và tin cậy cao. Bà đã tìm gặp trực tiếp những người Mỹ từng tiếp xúc với Hồ Chủ tịch trong thời gian đó. Bà cũng là người đầu tiên khẳng định: Hồ Chí Minh không chỉ trích dẫn mà còn có ý thức thay đổi từ ngữ ở bản dịch theo chủ kiến của mình.

Cẩn trọng đến từng chi tiết

Năm 1997, Lady Borton tìm gặp một nhân chứng quan trọng: Charles Fenn, nhân viên đầu tiên của phái bộ OSS (Cơ quan tình báo chiến lược, tiền thân của CIA) tiếp xúc với Hồ Chí Minh tháng 3-1945. Hồi đó, Charles Fenn được phái đến phái bộ OSS đóng tại Côn Minh (Trung Quốc). Cùng thời gian ấy, Hồ Chí Minh đích thân đưa một phi công Mỹ – người được Việt Minh cứu thoát sau khi bị quân Nhật bắn hạ lúc ném bom phát xít ở Đông Dương – sang Côn Minh để trao trả cho Đồng minh.

Đọc tiếp »


Những giá trị của bản Tuyên ngôn độc lập (1945)*

02/09/2010

* Tiêu đề do TheheHoChiMinh.net đặt

Trần Dân Tiên

“Cụ Hồ không giấu nổi sự sung sướng. Cụ Hồ nói, trong đời cụ, Cụ đã viết nhiều, nhưng đến bây giờ mới được viết một bản Tuyên ngôn như vậy.

Thật vậy bản Tuyên ngôn độc lập là kết quả của những bản yêu cầu gửi cho Hội nghị Véc-xây mà Cụ Hồ đã viết năm 1919 và chương trình Việt Minh cụ hồ đã viết năm 1940. Hơn nữa, bản Tuyên ngôn độc lập là kết quả của những bản tuyên ngôn khác của tiền bối như các cụ Thủ khoa Huân, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Bội Châu và của nhiều người khác, của bao nhiêu sách báo truyền đơn bí mật viết bằng máu và nước mắt của những nhà yêu nước từ hơn 80 năm nay.

Đọc tiếp »


Tuyên ngôn độc lập năm 1945 – những giá trị truyền thống và đương đại

02/09/2010

Nguyễn Đình Lộc

Nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp

Có một truyền thống Việt Nam

Ngày 2 tháng 9 năm 1945 đã đi vào lịch sử dân tộc với tính cách là ngày Quốc khánh Việt Nam. Sự lựa chọn thật thích đáng. Đó là ngày ra đời của Tuyên ngôn độc lập do lãnh tụ tối cao Hồ Chí Minh tuyên đọc, chính thức khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.

Sự ra đời của Tuyên ngôn độc lập năm 1945 phải được xem là một sự kiện hoàn toàn tự nhiên. Dân tộc Việt Nam, sau gan 100 năm chịu ách đô hộ, thống trị tàn bạo của nước ngoài đã bằng cuộc đấu tranh kiên cường, bất khuất, chấp nhận những hy sinh, mất mát to lớn giành lại được giang sơn gấm vóc, giành lại được độc lập, tự do.

Đọc tiếp »


Tuyên ngôn độc lập năm 1945 – văn bản pháp lý – chính trị, nền tảng của nước Việt Nam mới

02/09/2010

Luật gia Phùng Văn Tửu

Bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ngày nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngay sau ngày tuyên bố độc lập, trong lúc Nhà nước cách mạng đang còn trứng nước, bọn phản động ra sức phá hoại, tình thế cách mạng “ngàn cân treo trên sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh và chính quyền cách mạng đã đề ra nhiệm vụ Tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội lập hiến, xây dựng Hiến pháp.

Hiến pháp 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta; là bản Hiến pháp của nước Việt Nam độc lập thoát khỏi xiềng xích áp bức, bóc lột của thực dân Pháp gần một thế kỷ và chế độ phong kiến thống trị hàng bao thế kỷ. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc được giải phóng, Nhà nước đã ban hành bản Hiến pháp thứ hai – Hiến pháp 1960 để làm cơ sở pháp lý cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Năm 1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng và cả nước thống nhất, bản Hiến pháp thứ ba – Hiến pháp 1980 đã được ban hành. Đó là bản Hiến pháp của nước Việt Nam thống nhất tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp hiện hành được Quốc hội thông qua năm 1992; là bản Hiến pháp thứ tư và là Hiến pháp của thời kỳ đổi mới.

Đọc tiếp »


Đối tượng và phương pháp của Hồ Chí Minh học

18/08/2010

GS SONG THÀNH

>>> Dowload file bài viết

1.Đối tượng nghiên cứu

Hồ Chí Minh học có ba bộ phận. Các bộ môn tiểu sử Hồ Chí Minh, tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng tư tưởng, tấm gương của Người vào cuộc sống đều có đối tượng nghiên cứu rộng, hẹp khác nhau, song đều liên quan mật thiết với nhau, nên có thể nói, về cơ bản là thống nhất với nhau.

Dù nghiên cứu tiểu sử hay tư tưởng Hồ Chí Minh để tìm cách vận dụng vào cuộc sống, người nghiên cứu đều phải tìm hiểu về quê hương, gia đình, dân tộc và thời đại Hồ Chsi Minh đã sống và hoạt động, về các nguồn tư tưởng và văn hoá đã ảnh hưởng đến Hồ Chí Minh, đã góp phần hình thành nên tư tưởng, đạo đức, phương pháp, phong cách của Người – nói chung là những phẩm chất và năng lực phi thường của một lãnh tụ thiên tài của dân tộc. Tư tưởng Hồ Chí Minh được phản ánh trong các công trình và tác phẩm của Người. Những tư tưởng đó được Người đưa ra để hành động nên cũng được quán triệt trong các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước mà Hồ Chí Minh là người đứng đầu. Ngoài ra, tư tưởng đó còn có thể được tìm hiểu thông qua các tác phẩm, bài viết của những đồng chí và học trò gần gũi của Người đã trực tiếp lĩnh hội và quán triệt tư tưởng của người thầy vĩ đại trong lĩnh vực hoạt động của mình.

Đọc tiếp »


Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tôi trở thành quân nhân như thế nào?

10/08/2010

DANIEL ROUSSEL thực hiện

Daniel Roussel sinh năm 1946, là phóng viên thường trú của báo L’Humanité (Nhân Đạo) tại VN từ 1980-1986. Chính trong những tháng ngày khó khăn nhất của VN sau chiến tranh, Daniel đã cảm nhận được cái đẹp của những tấm lòng VN, của con người và đất nước lúc đó còn đang bị phong tỏa trong vòng vây cấm vận.

Trở về Pháp, ông trở thành một nhà làm phim tài liệu – lịch sử nổi tiếng, trong đó có ba bộ phim về chiến tranh VN: Cuộc chiến giữa hổ và voi; Tù binh Mỹ ở Hà Nội – Hilton và Missing in action.

Đi về giữa VN và Pháp, Daniel Roussel có một tình bạn thắm thiết với đại tướng Võ Nguyên Giáp, người ông gọi là: “Ông chú đáng kính trong gia đình”.

Daniel Roussel  đã ghi lại cuộc phỏng vấn mang tính cá nhân đầu tiên của mình với đại tướng Võ Nguyên Giáp thực hiện từ năm 1992, nhưng phải tới 15 năm sau (năm 2007), ông mới công bố với độc giả.

Đọc tiếp »


Nhà văn Sơn Tùng: “Sự vĩ đại của Bác nằm ở nền móng đạo đức!”

10/08/2010

Nhà báo Giao Hưởng

Trên thế giới đã có rất nhiều tác giả viết về Nhà văn hoá Hồ Chí Minh. Riêng ở Việt Nam, nhà văn Sơn Tùng hiện có tới 12 cuốn sách về Bác, từ Nhớ nguồn, Kỷ niệm tháng Năm, Bác về, Hoa râm bụt đến Trái tim quả đất, Búp Sen xanh, Bông Sen vàng… Ông được coi là một trong số những cây bút hàng đầu viết về Bác. Rất nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà báo từ các nước trên thế giới vẫn tìm đến ông, coi ông là một nguồn tư liệu để họ tham khảo và tiếp tục viết về Bác Hồ.

– Theo ông, cái gì là nền tảng tạo nên sự vĩ đại của Nhà văn hoá kiệt xuất thế giới Hồ Chí Minh?

– Tất cả sự vĩ đại của Bác nằm ở nền móng đạo đức! Bác của chúng ta vượt lên các thiên tài cùng thời đại ở việc làm, ở phong cách ứng xử bình dị đời thường mà người đời nhìn được, cảm được, chứ không đơn thuần chỉ dừng lại ở luận bàn đạo đức từng gặp xưa nay. Bác đến với nông dân như một người nông dân đến với người nông dân; đến với giới trí thức cũng hoà nhập như một trí thức, cốt cách ấy không lẫn vào đâu được!

Đọc tiếp »


Tầm nhìn sáng tạo của Hồ Chí Minh khi tiếp nhận học thuyết Mác

05/08/2010

Hoàng Văn Lân

Hồ Chí Minh đã thực hiện cuộc đối thoại thứ ba giữa hai nền văn minh phương Đông và phương Tây. Kết quả là Hồ Chí Minh, đã cùng một lúc gặp nhân loại cũ của thế giới cũ và phát hiện ra nhân loại mới của thế giới mới để rồi kiên định suốt đời đứng về phía nhân loại mới nhằm tìm đường giải phóng và phát triển cho dân tộc và nhân loại cần lao.

Không lâu trước khi qua đời (2-9-1969), Hồ Chí Minh đã trả lời nhà báo người Mỹ Anna Louise Strong về quyết định “đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác của mình” như sau:

“Những người Việt Nam, trong đó có cả cha tôi, thường tự hỏi nước nào có thể giúp phá bỏ ách đô hộ của người Pháp. Một số cho rằng Nhật Bản, những người khác cho rằng nước Anh và một số khác lại cho rằng nước Mỹ. Tôi cho rằng cần phải ra nước ngoài để tự tìm câu trả lời cho mình. Sau khi tôi biết họ được sống ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào mình” (1).

Đọc tiếp »


Tóm tắt nội dung tham luận tại Hội thảo Quốc tế về Chủ tịch Hồ Chí Minh (tháng 5/2010)

30/07/2010

Hội thảo khoa học quốc tế với chủ đề “Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay” đã diễn ra tại Hà Nội trong hai ngày 12 và 13/5/2010.

>>> Phát biểu khai mạc của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng

Hội thảo thu hút hàng trăm đại biểu là các quan chức, chuyên gia trong nước và đến từ nhiều nước trên thế giới như Nga, Anh, Pháp, Mỹ, Brazil, Cuba, Lào… với gần 200 tham luận.

Với khối lượng tham luận đồ sộ, hội thảo được tổ chức thành ba phiên theo ba chủ đề: “Hồ Chí Minh với sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, “Hồ Chí Minh với sự nghiệp hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc”, “Văn hóa, đạo đức, nhân cách trong di sản Hồ Chí Minh”.

TheheHoChiMinh.net xin giới thiệu bản tóm tắt 83 tham luận của các đại biểu Việt Nam. Chúng tôi sẽ tiếp tục bổ sung khi nhận được những tham luận mới.

Đọc tiếp »


Đại tướng Võ Nguyên Giáp dưới góc nhìn của người viết Sử

14/07/2010

DƯƠNG TRUNG QUỐC

Kể từ khi tôi tham gia công tác của Hội Sử học VN, tôi càng có nhiều cơ hội gặp đại tướng Võ Nguyên Giáp và càng bị ông cuốn hút không phải chỉ ở một sự nghiệp quá đồ sộ của một nhà cách mạng, một vị Tổng tư lệnh mà còn ở một phẩm cách của một nhà sử học lớn.

Ông kể cho tôi một đôi ký ức thời trai trẻ rồi đọc thuộc lòng.những vần thơ hừng hực chí khí yêu nước của Phan Bội Châu. Ông kể lại những kỷ niệm về các nhân vật lịch sử mà ông từng tiếp xúc như cụ Huỳnh Thúc Kháng, Trần Huy Liệu. Ông đọc thuộc từng bài trong sách giao khoa thư đã nhen nhóm trong lòng ông những bài học đầu tiên dạy làm người. Rồi những bài học lịch sử trên bục giảng ở trường tư thục Thăng Long…

Đọc tiếp »


Hội thảo khoa học quốc tế “Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay”

12/05/2010

Hội thảo khoa học quốc tế với chủ đề “Di sản Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay” được khai mạc sáng ngày 12/5 tại Học viện Chính trị Hành chính Quốc gia, nhân dịp kỷ niệm 12o năm ngày sinh Chủ tịch  Hồ Chí Minh.

Hội thảo có gần 400 đại biểu, các nhà khoa học, với 149 bài tham luận của các học giả trong và ngoài nước.

Đặc biệt tham dự Hội thảo có 55 đại biểu đại diện các đảng cộng cộng sản, công nhân quốc tế, bà Katherine Marin Muller- Trưởng đại UNESCO tại Việt Nam, các nhà khoa học quốc tế đến từ 22 quốc gia; đại sứ các nước tại Việt Nam…

TheheHoChiMinh.net xin giới thiệu bài phát biểu khai mạc của Chủ tịch  Quốc hội Nguyễn Phú Trọng.

Đọc tiếp »


Hội thảo Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ lý luận chính trị và truyền thông

03/05/2010

NBS

Sáng 28/4/2010, Bảo tàng Hồ Chí Minh phối hợp cùng Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã tổ chức Hội thảo quốc gia với chủ đề “Di sản Hồ Chí Minh với sự nghiệp đào tạo cán bộ Lý luận chính trị và truyền thông trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế”.

Tới dự hội thảo có PGS TS Tạ Ngọc Tấn (Tổng biên tập tạp chí Cộng sản); TS Chu Đức Tính (Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh) cùng các nhà khoa học đến từ Học viện Chính trị – Quốc gia Hồ Chí Minh và cán bộ, nhân viên Bảo tàng Hồ Chí Minh.

Đọc tiếp »


Tổ chức sinh nhật Bác quy mô cấp quốc gia

27/04/2010

Thủ tướng vừa quyết định phê duyệt đề án tổ chức kỷ niệm 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2010), 20 năm UNESCO công nhận Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất Việt Nam (1990-2010).

Buổi lễ sẽ được tổ chức tại Hà Nội bắt đầu từ 7h30, ngày 18/5/2010 với quy mô cấp quốc gia, được truyền hình trực tiếp.

Đọc tiếp »


Hồ Chí Minh – cuộc đời như một thông điệp

01/04/2010

Nguyễn Trần Bạt

Chủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult Group
Báo Diễn đàn Doanh nghiệp, Số ra ngày 14/5/2002

Những giá trị tinh thần to lớn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc là không ai có thể phủ nhận, nhưng cách thức mà chúng ta đang sử dụng để đánh giá, nghiên cứu và học tập những giá trị tinh thần ấy lại rất đáng lo ngại. Không chỉ trong sinh hoạt hàng ngày, mà cả trên không ít phương tiện tuyên truyền, người ta đang vô tình hay hữu ý tìm cách áp đặt vào sự nghiệp của Hồ Chí Minh những điều xa lạ với chính Người.

Những giá trị cơ bản của Hồ Chí Minh chính là giá trị hành vi. Tôi nghĩ rằng những giá trị tinh thần của Hồ Chí Minh cần phải được nghiên cứu thực sự, và từ đó soi rọi nền văn hoá chính trị Việt Nam.

Nói đến Hồ Chí Minh là phải nói đến Đảng Cộng Sản Việt Nam. Theo tôi, Đảng Cộng sản Việt Nam là khối đầu óc của nhân dân, chứ không phải là những thành tựu chính trị, cho dù những thành tựu chính trị đó là có thật và trong đó bao giờ Hồ Chí Minh cũng đóng vai trò hình mẫu, cả với tư cách một nhà hoạt động chính trị lẫn vai trò người đại diện dân tộc… Tại sao người ta phân biệt bộ đội Cụ Hồ với những người lính khác? Và anh bộ đội Cụ Hồ cũng khác nhau ở hai giai đoạn chống Pháp và chống Mỹ. Người bộ đội Cụ Hồ được xem xét thông qua lăng kính Hồ Chí Minh: người ta nhìn, người ta gắn lên anh bộ đội hình ảnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nếu như chúng ta chỉ dừng lại nghiên cứu những bài viết, giải pháp hay những lập luận của Bác Hồ và kết luận rằng đấy là tư tưởng Hồ Chí Minh thì chúng ta đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng. Cần phải nghiên cứu các giá trị văn hoá của Hồ Chí Minh chứ không phải là những bài viết hay câu nói cụ thể. Và các giá trị văn hoá ấy được thể hiện khi rõ ràng, khi kín đáo, nhưng thật là tinh tế. Hồ Chí Minh mặc áo Tôn Trung Sơn, chẳng hạn, không phải tình cờ mà là vì nhu cầu chính trị lúc bấy giờ…

Đọc tiếp »


Phong cách lãnh đạo độc đáo của Hồ Chí Minh

01/04/2010

Nguyễn Trần Bạt
Chủ tịch / Tổng giám đốc, InvestConsult Group

Hồ Chí Minh là một nhà chính trị kiệt xuất, có những giá trị vượt thời gian và quan trọng hơn là có giá trị đương đại. Ông là một nhà chính trị có những địa vị không thể nào so sánh được, có những giá trị không thể nào nhầm lẫn được. Giá trị chính trị, phong cách lãnh đạo, tài năng chính trị của ông bộc lộ trong hoàn cảnh dân tộc Việt Nam đang có những cuộc chiến tranh giải phóng dài nhất thế giới và những cuộc đụng độ với các đối tượng lớn nhất thế giới.

1. Tài năng tổ chức ra tâm lý thời bình ngay cả trong thời chiến

Một trong các giá trị quan trọng nhất tạo ra tính không thể nhầm lẫn đó là tài năng tổ chức ra tâm lý thời bình ngay cả trong thời chiến.

Khi Johnson đưa nửa triệu quân Mỹ sang Việt Nam và mở rộng cuộc chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, Hồ Chí Minh đã đưa ra một thông điệp cứu quốc trong đó có đoạn: “Này Tổng thống Johnson, Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố khác có thể bị tàn phá nhưng nhân dân Việt Nam quyết không sợ…” Hồ Chí Minh gọi tên kẻ thù mà như không có sự phân biệt nào cả. Tôi nghe không chỉ ngôn từ mà cả lời nói của Hồ Chí Minh và nhận thấy sự khôn ngoan và phải chăng chính trị của ông, sự phải chăng không đạt đến được đối với những người khác. Hay trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến giọng điệu của Hồ Chí Minh vẫn rất hoà bình: “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.” Lời tuyên chiến ấy giống như phản ứng của một con người đang cày dở thửa ruộng, đang dở dang một công việc rất thông thường của đời sống con người, tức là ông không dập tắt tâm lý hoà bình ngay cả khi viết lời tuyên chiến. Hồ Chí Minh đủ tầm nhìn để hình dung ra kết cục của cuộc kháng chiến từ khi nó chưa kết thúc. “Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc…” Ông xếp súng, gươm, cuốc, thuổng, gậy gộc với nhau tức là xếp những công cụ lao động hòa bình cùng với các công cụ chiến tranh hiện đại, làm cho ngôn ngữ chiến tranh dù rất mạnh mẽ, thôi thúc nhưng giọng điệu lại rất hòa bình. Đấy chính là thiên tài. Một con người trong tâm tưởng phải hình dung ra kết cục của cuộc chiến tranh khi nó chưa kết thúc thì mới có đủ trí tuệ để tổ chức ra tâm lý hoà bình. Và đó chính là tầm nhìn chính trị, là sự trung dung vĩ đại của Hồ Chí Minh.

Đọc tiếp »


“Qua hai chiều cửa sổ” với nhà văn Sơn Tùng

05/03/2010

Trần Hoàng Thiên Kim

Một buổi chiều đẹp trời trong căn phòng 12m vuông chật chỗ những tư liệu sách vở, ghi chép, nhà văn Sơn Tùng ngồi lặng lẽ bên bàn viết. Ông nghĩ ngợi một điều gì đó rất xa xăm, kẹp bút bằng hai ngón tay và viết một cách miệt mài. Ông đang có một mạch ý tưởng và sợ dừng tay sẽ mất dòng cảm hứng. Hình như ông đang làm thơ.

Những cuốn sách viết về bác Hồ quá thành công khiến ít người biết rằng xuất phát điểm ông là một nhà thơ. Ông nói” Tôi yêu thơ từ ngày còn thơ, yêu như mối tình đầu không thành đôi lứa trọn đời”. Bài “Chiếc nón bài thơ” của ông do nhạc sỹ Lê Việt Hoà phổ nhạc, được nhiều người biết đến. Bây giờ vì vẫn nhớ thơ nên ông vẫn làm, nhưng những bài thơ ấy vẫn còn nằm trong sổ tay như những kỷ niệm đẹp của tâm hồn.

Đọc tiếp »


Nhà văn Sơn Tùng: ”Tôi chỉ mới mon men đến bên cạnh Bác”

05/03/2010

VIỆT HÀ

Tôi đã tâm nguyện dành cả cuộc đời mình để tìm hiểu và viết về Người. Nhưng cho đến bây giờ, khi chân đã run, tóc đã trắng đầu mà tôi thấy mình mới chỉ mon men đến cạnh Bác. Tôi viết chủ yếu về Bác nhưng cũng là viết về thời đại. Bởi vì Bác là sự hội tụ của thời đại và là sự kết tinh của truyền thống, tinh hoa dân tộc.”. Đó là tâm sự của nhà văn Sơn Tùng, nhà văn được biết đến là một cây bút suốt đời viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Nhà văn Sơn Tùng nuôi dưỡng ý định viết về Bác Hồ từ năm 1948. Khi ấy ông mới 20 tuổi.Ông đã vào Nam ra Bắc, ra nước ngoài,  đến những nơi Bác từng đến, từng sống và làm việc. Ông đã gặp gỡ những người thân của Bác, những người bạn, người quen, người cùng thời với Bác để có được các  thông tin, cứ liệu về Bác. Đến nay, nhà văn Sơn Tùng đã có 9 cuốn sách viết riêng về Bác và hàng chục cuốn khác viết về các danh nhân hay những vấn đề có Bác nổi lên như một hình tượng. Ông nói: “Viết về Bác nếu chỉ đơn thuần là những hiểu biết thông thường thì không thể viết được mà phải viết bằng tâm linh”. Cái chữ “tâm linh” này, để  định nghĩa nó một cách rõ ràng và thấu đáo cũng không giản đơn. Nhưng ở đây, nhà văn Sơn Tùng  muốn nói đến tình cảm và sự ngưỡng vọng của bản thân đối với nhân cách, trí tuệ và con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.

Đọc tiếp »


Bác Hồ và người gánh nước đêm giao thừa

12/01/2010

BÙI DŨNG
Tuần Việt Nam

“Một Đảng cầm quyền mà để người dân mình nghèo hết còn chỗ để nghèo thì đó là lỗi của Đảng với nhân dân…” – điều Bác Hồ nói vào mùa Xuân cách đây 45 năm đến nay còn thấm thía.

Chuyện suy tư đêm 30

Trước thời khắc chuyển giao giữa năm mới và năm cũ của 45 năm về trước, khi nhà nhà sum họp, quây tụ, Bác “vi hành”.

Thiếu tướng Phan Văn Xoàn, nguyên là cận vệ của Chủ tịch Hồ Chí Minh kể lại: Đúng 11 giờ đêm giao thừa, bác mặc áo bông, quần vải gụ, đi dép cao su, đội mũ len đen và quấn khăn chòng cổ, tìm đến nhà “một gia đình nghèo nhất Hà Nội” như người cận vệ của bác báo về. Đó là nhà chị Nguyễn Thị Tín, góa chồng, ngoài 40 tuổi, đêm trừ tịch vẫn phải đi gánh nước thuê nuôi các con.

Đến nay, sau gần nửa thế kỷ, liệu đất nước chúng ta đã hết những cảnh nghèo khổ, cơ cực như chị Tín?

Tết năm ấy Bác Hồ buồn. Trước những người hàng phố quanh nhà cô Tín ở, Bác đã hỏi: “Tại sao cả một khu phố như vậy mà không thấy ai quan tâm đến một gia đình như cô Tín? Chúng ta đã quá quan liêu để không biết những câu chuyện như vậy ở ngay thủ đô nước mình”.

Đọc tiếp »


Bác Hồ với sự nghiệp giải phóng phụ nữ

12/01/2010

GS, TS NGUYỄN LÂN DŨNG
Nhịp cầu đầu tư

“Phụ nữ làm chủ nhiệm đâu có đánh chén. Chủ nhiệm nữ thật thà, phải đưa nhiều phụ nữ tham gia làm chủ nhiệm”.

Trong một lần trả lời phỏng vấn Đài phát thanh BBC (Anh) nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình đã nói: Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khởi xướng con đường giải phóng phụ nữ tại Việt Nam. Người đã thức tỉnh phụ nữ tham gia giải phóng dân tộc, nhân loại và từ đó giải phóng chính mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn cảm thông sâu sắc với nỗi thống khổ của người phụ nữ Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay sai. Người xác định rõ, bất bình đẳng nam nữ không đơn thuần là bị ảnh hưởng bởi các tư tưởng lạc hậu mà chủ yếu là do chế độ kinh tế xã hội. Hồ Chí Minh là lãnh tụ Việt Nam đầu tiên kêu gọi “Thực hiện nam nữ bình quyền”, coi sự nghiệp giải phóng phụ nữ là mọt mục tiêu của cách mạng.

Đọc tiếp »


Bác Hồ viết báo

12/01/2010

GS, TS NGUYỄN LÂN DŨNG
Nhịp cầu

Trong cuộc đời hoạt động báo chí của mình, Bác Hồ đã viết khoảng 2.000 bài báo với trên 100 bút danh khác nhau. Bác coi báo chí là vũ khí sắc bén để vận động quần chúng và đấu tranh với kẻ thù…

Ban đầu Bác chỉ viết những mẩu tin ngắn, từ vài dòng đến một cột báo. Dần dần, Bác viết các bài chính luận hay phóng sự. Là một trong những người sáng lập ra tờ báo Le Paria của Hội Liên hiệp thuộc địa, chỉ riêng năm 1922, Bác đã viết khoảng 20 bài báo nhằm tố cáo dã tâm và tội ác của chủ nghĩa thực dân.

Đọc tiếp »


Văn hóa trong phê bình theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh

12/01/2010

PHẠM HOÀNG DIỆP
Tạp chí Hà Nội ngàn năm

Tự phê bình và phê bình cốt là để phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm để tư tưởng và hành động được đúng hơn và tốt hơn để làm việc có hiệu quả hơn. Như vậy cũng có nghĩa: tự phê bình và phê bình là hành vi văn hóa vì vậy nó phải được thực hiện đúng như bản chất của nó. Qua các phân tích nghiên cứu thì quan điểm phê bình có văn hóa của Hồ Chí Minh là:

Phê bình thẳng thắn, khách quan và xây dựng.
Phê bình với tâm trong sáng, tấm lòng bao dung và tình đồng chí thương yêu lẫn nhau.
Phê bình được thực hiện một cách dân chủ, công khai.
Phê bình có phương pháp và nghệ thuật.

Hồ Chí Minh nhận thấy rằng: người đời không phải là thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm, điều quan trọng là phải mạnh dạn nhận khuyết điểm và quyết tâm sửa chữa. Người ví việc che giấu khuyết điểm giống như “giấu giếm bệnh tật trong mình không dám uống thuốc để bệnh ngày càng nặng thêm nguy hiểm đến tính mạng”, bởi vậy “thang thuốc hay nhất là tự phê bình và phê bình” trong đó phải phê bình mình trước rồi phê bình người sau như người xưa đã dạy: “Tiên trách kỷ hậu trách nhân”.

Đọc tiếp »


TÀI LIỆU THAM KHẢO CHỦ YẾU/Sách: “Hồ Chí Minh – con người của sự sống”

11/01/2010

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

– Ban Chỉ đạo tổng kết lý luận (Ban Chấp hành Trung ­ương Đảng Cộng sản Việt Nam): Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 – 2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.

– Bảo tàng Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh – Những sự kiện, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1990.

– Bảo tàng Hồ Chí Minh: Những tên gọi bí danh, bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.

– Nguyễn Trần Bạt: Văn hoá và con người, Nxb Văn hoá thông tin (In lần thứ hai), Hà Nội, 2006.

Đọc tiếp »


KẾT LUẬN/Sách: “Hồ Chí Minh – con người của sự sống”

11/01/2010

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

1. Sức sống của con người Hồ Chí Minh biểu hiện ở cuộc sống của ông có đầy tham vọng.

Phàm là người nào có đức dày, có tâm lành, có trí sáng, có tầm cao, có tài kinh bang tế thế, có ý chí lớn lao dời non lấp bể thì người đó không thể không có tham vọng.

Hồ Chí Minh là một con người như thế.

Đọc tiếp »


Chương 4: VĂN HOÁ SOI ĐƯỜNG CHO QUỐC DÂN ĐI/Sách: “Hồ Chí Minh – con người của sự sống”

11/01/2010

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

I. Vai trò, chức năng của văn hoá
Cách nhìn của thế giới
Quan niệm của Hồ Chí Minh
II. Hồ Chí Minh  –  sự tiếp biến văn  hoá. Vượt qua cú sốc văn hoá
III. Văn hoá trong tư tưởng Hồ Chí Minh – Cách nhìn biện chứng     trong xã hội hiện đại
Văn hoá với chính trị, kinh tế, xã hội
Văn hoá lối sống
Vượt qua cú sốc về giáo dục

Đạo đức là một bộ phận của văn hoá, có nghĩa là tôi/và nhiều người nữa mạnh dạn nêu lên khái niệm “văn hoá đạo đức”. Có thể có bạn đọc không ưng. Ở đây, trong cuốn sách này, chương trước, tôi muốn tách riêng ra để viết về đạo đức Hồ Chí Minh như là một triết lý phát triển qua hành động thực tế của Hồ Chí Minh.

Ở trong chương này, tôi viết riêng về văn hoá ở con người ông. Đúng thế. Hồ Chí Minh là nhà văn hoá. Hồ Chí Minh là nhà văn hoá trùm lên tất cả các cái danh khác mà người ta gọi ông.

Đọc tiếp »


Con đường tiếp cận chân lý khi nghiên cứu Hồ Chí Minh

10/01/2010

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

Chân lý chỉ có một. Sự thật chỉ có một. Nhưng nhận thức của mỗi con người, mỗi cộng đồng có nhiều khi không phải chỉ một lần mà nhận thức đúng ngay được chân lý, đúng ngay được sự thật.

Có 1001 nguyên nhân.

Thông thường thì nhận thức là cả một quá trình từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa đầy đủ đến toàn diện, và có khi nó dích dắc, có khi nhận thức tưởng là được rồi, đúng rồi nhưng sau đấy lại phải nhận thức lại. Nhận thức của con người về những sự vật và hiện tượng trong thế giới tự nhiên không bao giờ thật đầy đủ và tuyệt đối chính xác. Nhận thức của con người là quá trình phản ánh giới tự nhiên, nhưng đó không phải là là sự phản ánh đơn giản, hoàn chỉnh, và có khi đó không phải là sự phản ánh trực tiếp. Đúng như có người nói: con người không thể nào nắm được, phản ánh được, miêu tả được toàn bộ cái thế giới tự nhiên một cách đầy đủ, mà con người chỉ có thể đi gần mãi đến đó, bằng cách tạo ra những khái quát trừu tượng, những khái niệm, những quy luật, những bức tranh khoa học về một thế giới chung quanh.

Đọc tiếp »


Nghiên cứu Bác Hồ, nhớ về Sơn Tùng – nhà Hồ Chí Minh học thực thụ

03/01/2010

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

“Các chú đừng vẽ rắn thêm chân”, đó là câu Bác Hồ thường nói với những người sống gần Bác khi những người đó miêu tả, đánh giá, nhận định về một người hay một việc nào đấy. Ngay cả việc Bác Hồ thấy người khác nói, viết về mình, nặn tượng, vẽ tranh về mình, Bác cũng rất ngại, và thường là Bác khuyên người ta đừng có làm điều đó.

Thời còn là sinh viên ở trong ký túc xá của đất Mễ Trì (Hà Nội), nơi mà các lớp học trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất bằng không quân và hải quân của Mỹ mới từ nơi sơ tán trở về (năm 1970), có một đêm các lớp sinh viên chúng tôi đã được nghe ông Hoài Thanh, một nhà thơ có tiếng cũng là một cây bút phê bình văn học sắc sảo, nói chuyện về thơ Hồ Chí Minh, có nghệ sĩ Kim Cúc ngâm thơ “minh hoạ”. Tôi nhớ rất đậm lời ông Hoài Thanh bình rằng: “Thơ Bác hay vì đó là thơ Bác”. Có lần, trong đêm, Bác nghe Đài Tiếng nói Việt Nam, có buổi nghe thấy ông Hoài Thanh bình thơ của Bác. Một hôm, tình cờ gặp Hoài Thanh trong một hội nghị, Bác nói vui với Hoài Thanh rằng, thơ của Bác không hay đến thế; những ý tứ mà Hoài Thanh bình ở trong Đài, thì khi làm thơ, chính bản thân Bác không nghĩ đến.

Đọc tiếp »


Tại sao Hồ Chí Minh bị hiểu lầm?

03/01/2010

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

Ngày 6-6-1938, với tên tiếng Nga là ậốớ (Lin), khi đang làm nghiên cứu sinh tại Viện Những vấn đề dân tộc và thuộc địa tại Mátxcơva, Hồ Chí Minh gửi thư cho một đồng chí của mình ở Quốc tế Cộng sản (QTCS):

“Hôm nay là ngày kỷ niệm lần thứ bảy việc tôi bị bắt giữ ở Hồng Công. Đó cũng là ngày mở đầu năm thứ tám tình trạng không hoạt động của tôi. Nhân dịp này, tôi viết thư gửi đồng chí để xin đồng chí giúp đỡ tôi thay đổi tình cảnh đau buồn này.

Đọc tiếp »


Nguyên nhân của các luận điệu xuyên tạc về Hồ Chí Minh và giải pháp đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc đó

03/01/2010

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

Vài lời mở đầu

Chuyên đề này không đi sâu vào việc nêu lên và phân tích những luận điệu sai trái, thù địch, xuyên tạc, phản bác về cuộc đời, sự nghiệp, trước tác của Hồ Chí Minh, mà là nêu lên và phân tích những nguyên nhân, đồng thời nêu một số giải pháp đấu tranh với các luận điệu đó. Đương nhiên, theo một lôgíc của cả đề tài này, trong một phạm vi nhất định nào đó, có thể tôi sẽ đề cập một số luận điệu có liên quan để làm minh chứng.

I. NGUYÊN NHÂN

Đọc tiếp »


Một số vấn đề về đạo đức Hồ Chí Minh

03/01/2010

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

I. ĐẠO ĐỨC – GỐC  CỦA CÂY, NGUỒN CỦA SÔNG, CÁI CĂN BẢN CỦA CON NGƯỜI

Trước hết, tôi muốn quy ước rằng, “đạo đức” của Hồ Chí Minh đề cập ở đây là đạo đức mới, khác đạo đức cũ, mà Hồ Chí Minh so sánh đạo đức cũ như là con người đầu chạm xuống đất hai chân chổng lên trời. Có khi Hồ Chí Minh gọi đạo đức mới là “đạo đức cách mạng”.

Đọc tiếp »


Đảng Cộng sản Việt Nam là lương tâm, trí tuệ, danh dự của dân tộc

03/01/2010

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

KHÔNG TỰ NHIÊN MÀ CÓ VÀ KHÔNG PHẢI CỨ TỰ NHẬN MÀ ĐƯỢC

79 Mùa Xuân đã đi qua, kể từ Mùa Xuân lịch sử ấy – Mùa Xuân Canh Ngọ đáng nhớ năm 1930. Sau chặng đường dãi dầu sương gió, từ Thái Lan, Hồ Chí Minh đến Hương Cảng chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản (ĐCS) Việt Nam.

Đọc tiếp »


Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ

03/01/2010

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ

Hồ Chí Minh là một trong những người tham gia thành lập ĐCS Pháp năm 1920; là người sáng lập ĐCS Việt Nam đầu năm 1930; là cán bộ của Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản. Hồ Chí Minh là lãnh tụ của ĐCS Việt Nam, suốt cả cuộc đời chăm lo lãnh đạo, rèn luyện Đảng, đồng thời là một chiến sĩ kiên cường của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Đọc tiếp »


Tại sao Hồ Chí Minh sang Liên Xô những năm 1923-1924?

03/01/2010

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

Với cương vị là cán bộ của Quốc tế Cộng sản, có ba quãng thời gian tiêu biểu nhất Hồ Chí Minh* hoạt động ở Liên Xô, tức là hoạt động ngay tại trụ sở của Quốc tế Cộng sản: 1. Từ mùa hè năm 1923 đến cuối năm 1924; 2. Năm 1927; 3. Từ năm 1934 đến cuối năm 1938.

Thời gian có phần đắc chí nhất của Hồ Chí Minh trong những năm hoạt động ở Quốc tế Cộng sản không dài, từ mùa hè năm 1923 đến cuối năm 1924, tức là thời gian kể từ khi Người tạm biệt các đồng chí của mình ở Đảng Cộng sản Pháp để bí mật đến Liên Xô theo sự điều động, phân công của Đảng Cộng sản Pháp và của Quốc tế Cộng sản vào hoạt động trong bộ máy của Quốc tế Cộng sản, làm cán bộ của Ban Phương Đông rồi cuối năm 1924 đến hoạt động ở Trung Quốc cũng như một số nước châu Á khác.

Đọc tiếp »


Phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về lý luận chính trị theo quan điểm của Hồ Chí Minh

03/01/2010

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

Là một nhà hoạt động chính trị chuyên nghiệp, Hồ Chí Minh nhìn thấy rất rõ vai trò của người cán bộ trong sự nghiệp cách mạng. Thường là với cách biểu đạt “gốc” và “ngọn” để chỉ rõ vị trí và vai trò của vấn đề, Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là cái gốc của mọi công việc; rằng, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém. Người cán bộ, trong quá trình hoạt động, ít nhiều đều phải trải qua đào tạo, bồi dưỡng với nhiều hình thức khác nhau, mà Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng.

Cho đến nay, ở Việt Nam, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thường là qua mấy hình thức sau đây:

Đọc tiếp »


Hồ Chí Minh – sự tiếp biến văn hóa

03/01/2010

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, một phần văn hoá Pháp tràn vào Việt Nam theo gót chân của những kẻ đi xâm lược đội lốt chiều bài với những từ ngữ mỹ miều là “sự khai hoá văn minh”. Trong thử thách của sự phát triển, cái linh đơn văn hoá Việt Nam vẫn còn, nhưng có nguy cơ dần mất đi cái vẻ huyền diệu đắc dụng của nó và có nguy cơ bị mai một, bị lai căng.

Văn hoá Pháp vào Việt Nam một cách xô bồ, có tốt và gây ra cũng không ít điều xấu. Điều tốt thì đó là những công trình mà Pháp dựng nên trên đất Việt Nam để phục vụ cho sự cai trị. Đó là những nhà cửa, đường sá, cầu cống, là kỹ nghệ…Đó là những trường học, tuy còn ít ỏi, nhưng là trường tây, theo văn hoá tây. Đó là cuộc sống có phần văn minh của phương Tây mà đến đầu thế kỷ XX, các nhà trí thức khai sáng của Việt Nam trong đó có Phan Châu Trinh, Lương Văn Can, v.v. bắt đầu áp dụng và mở cuộc vận động duy tân khá lớn và thành công không nhỏ. Chữ Hán được thay bằng quốc ngữ. Những cái đầu quấn tóc búi tó, những quần ống sớ, guốc mộc…đã nhường chỗ khá nhiều cho tóc ngắn, cho bộ đồ Âu complê thắt caravát, cho giầy đen, cho nhảy đầm, uống cà phê, hút thuốc lá thơm, cho lối sống văn minh bài trừ mê tín dị đoan, v.v. Một văn hoá ngoại lai cuốn vào chốn thuộc địa mà thuộc địa này vẫn đậm cốt cách phong kiến trong từng hang cùng ngõ hẻm. Và đương nhiên nó cũng sinh ra nhiều cái xấu, bởi không thể khác được do nó đi sau gót thực dân, mang theo cả những cặn bã ở “chính quốc” sang Việt Nam, nó khuyếch đại và nhân lên và phổ vào những cái cổ hủ xưa của phong kiến.

Đọc tiếp »


Nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng Đảng – những vấn đề nhận thức thêm

03/01/2010

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của việc xây dựng đảng cộng sản. Vấn đề này được V.I. Lênin xác định trong học thuyết về xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp vô sản, sau đó được các đảng cộng sản của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) cũng như nhiều đảng cộng sản của phong trào cộng sản quốc tế vận dụng vào trong các hoạt động của đảng mình.

Hồ Chí Minh – lãnh tụ của Đảng Cộng sản Việt Nam – coi nguyên tắc tập trung dân chủ (có lúc Hồ Chí Minh gọi là chế độ dân chủ tập trung) là nguyên tắc rất quan trọng trong xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh coi tập trung và dân chủ phải luôn luôn đi đôi với nhau; dân chủ phải đi đến tập trung và tập trung trên cơ sở dân chủ. Gần đây nhất, trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X năm 2006, nêu rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ”, đồng thời xác định 6 nội dung cụ thể không những về “tổ chức” mà chủ yếu là về “hoạt động” hoặc “sinh hoạt” của Đảng.

Đọc tiếp »


Từ “Sửa đổi lối làm việc” đến đổi mới phong cách công tác của cán bộ hiện nay

03/01/2010

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

Trong quá trình tiến hành công tác xây dựng Đảng những năm sau Cách mạng Tháng Tám (1945-1947), Hồ Chí Minh thấy rằng, bên cạnh những ưu điểm, trong Đảng còn bộc lộ những thiếu sót lớn làm ảnh hưởng không tốt đến sự nghiệp kháng chiến. Do vậy, tháng 3 năm 1947, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho các đồng chí cán bộ, đảng viên Bắc Bộ và Trung Bộ, trong đó nêu lên những biện pháp kiên quyết tẩy sạch những khuyết điểm trong Đảng. Nhưng, qua theo dõi, Hồ Chí Minh thấy sự chuyển biến trong việc khắc phục các khuyết điểm đó chưa được nhiều. Chính vì thế, tháng 10-1947, với bút danh X.Y.Z., Hồ Chí Minh viết xong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, sau đó được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1948.

Điều đặc biệt là tác phẩm này đã đề cập hầu hết các mặt của công tác xây dựng Đảng chứ không chỉ riêng “lối làm việc”. Và, khái quát trên tất cả những nội dung được coi thuộc về lối làm việc (mà hiện nay thường được gọi là phương thức, phương pháp làm việc, phong cách công tác), Hồ Chí Minh đã nêu lên những vấn đề lý luận cơ bản nhất về quy luật Đảng thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân mình. Điều này đúng như lôgíc tất yếu mà Hồ Chí Minh đã nêu ngay chính trong tác phẩm này là: “Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra” (tr.262)*, do đó, Đảng phải thường xuyên phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, và đó chính là quy luật phát triển của một Đảng Mác – Lênin, một Đảng chiến đấu dưới lá cờ của chủ nghĩa cộng sản, vì một xã hội tốt đẹp, vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con người.

Đọc tiếp »


Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

03/01/2010

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

1. Quan điểm về Đảng Cộng sản Việt Nam – sự đúc kết của một nhà tư tưởng lớn

“Đảng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, đó chính là Đảng Cộng sản (ĐCS) Việt Nam do Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Xét ở khía cạnh vị thế của Hồ Chí Minh trong việc nêu lên những quan điểm về ĐCS, chúng ta thấy nổi lên mấy điểm đáng chú ý sau đây:

Đọc tiếp »


Rèn luyện đạo đức cách mạng theo quan điểm của Hồ Chí Minh

03/01/2010

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

Bàn về cái gốc để phát triển, hay triết lý phát triển trong hành động của Hồ Chí Minh, có ba vấn đề đáng chú ý nhất trong việc rèn luyện đạo đức.

1. Quá trình rèn luyện đạo đức phải được diễn ra suốt cả cuộc đời con người

Đạo đức tốt của một con người không phải cứ tự nhiên mà có, nói như Hồ Chí Minh là nó không phải từ trên trời rơi xuống, mà do tu dưỡng bền bỉ hằng ngày để phát triển, củng cố, như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Ở trong tù, ngày rộng tháng dài, “một ngày tù bằng nghìn thu ở ngoài”, mất tự do, chịu nhiều khổ ải, Hồ Chí Minh làm thơ (Ngục trung nhật ký), trong đó có một bài vận vào cái chí khí của Người trong việc tự rèn luyện:

Đọc tiếp »


Một phương châm khi nghiên cứu Hồ Chí Minh

03/01/2010

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

“Các chú đừng vẽ rắn thêm chân”, đó là câu Hồ Chí Minh thường nói với những người sống gần Người khi những người đó miêu tả, đánh giá, nhận định về một người hay một việc nào đấy. Ngay cả việc Hồ Chí Minh thấy người khác nói, viết, nặn tượng, vẽ tranh về mình, Người cũng rất ngại, và thường là Người khuyên người ta đừng có làm điều đó.

Có một số người gây nhiễu thông tin về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh có vợ có con hay không là câu chuyện bị gây nhiễu nhiều nhất. Tôi cho rằng: việc Hồ Chí Minh có vợ con hay không thì chẳng ảnh hưởng gì đến tư cách, đạo đức của Người. Nếu Hồ Chí Minh có vợ, có con, nghĩa là có gia đình riêng, thì với những gì Người đã cống hiến cho đất nước, chúng ta vẫn nhận định được rằng: Hồ Chí Minh đã hy sinh lợi ích riêng tư để dâng hiến cho Tổ quốc thân yêu của mình. Không phải không có vợ con mới là hy sinh chuyện riêng tư. Chỉ có điều là nếu Hồ Chí Minh có vợ thì đấy mới là chính là một con người hoàn chỉnh. Hồ Chí Minh cũng không ít lần nói về cái khiếm khuyết của chính cuộc đời mình, và một trong những khiếm khuyết đó là không có vợ; do vậy ông khuyên thanh niên Việt Nam đừng nên học mình về điều đó. Nếu Hồ Chí Minh có vợ con thật thì ông không thể giấu được trong ngần ấy năm. Có thể có nhiều người con gái đem lòng yêu Hồ Chí Minh. Có như vậy là sự thường. Tình yêu thời trai trẻ, tại sao không? Một thanh niên thư sinh, đẹp trai, hào hoa, phong nhã, lại là con quan, con nhà gia giáo mà lại không có người con gái nào yêu mình, mới là sự lạ. Tôi đã đọc rất kỹ nhiều bài viết của một số người đề cập chuyện Hồ Chí Minh có vợ con. Tôi khẳng định rằng, lập luận và những chứng cớ của những bài viết đó nêu ra không có sức thuyết phục.

Đọc tiếp »


William J.Duiker viết về Lá thư Nguyễn Tất Thành xin vào học trường thuộc địa (1911)

03/01/2010

WILLIAM J.DUIKER

Theo W.J.Duiker, đây là một lá thư do Nguyễn Tất Thành viết. Tuy nhiên, trong “Hồ Chí Minh toàn tập”, không thấy có lá thư này. Để tạo điều kiện bạn đọc tiếp cận và nghiên cứu, chúng tôi trích đăng ý kiến của W.J.Duiker. Hoan nghênh bạn đọc phản hồi về lá thư theo địa chỉ email: info@thehehochiminh.net

Anh Thành đã trở lại tàu trước khi tàu nhổ neo; tàu đã đến Cảng Le Havre ngày 15.7, và vài ngày sau đã đến Cảng Dunkerque và cuối cùng trở lại Marseilles, và ở đó cho đến giữa tháng 9. Tại đây, anh đã viết một bức thư gửi cho Tổng thống nước Cộng hoà Pháp. Vì đây là một sự kiện đáng chú ý, tôi xin chép toàn văn thư này.

Đọc tiếp »


Chương 3: TRIẾT LÝ PHÁT TRIỂN QUA CUỘC SỐNG/Sách: Hồ Chí Minh – con người của sự sống

02/01/2010

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

Về triết lý phát triển thì quả là còn nhiều điều đáng bàn. Có thể coi rằng, triết lý là lý luận về triết học, tức là quan niệm về con người, về những vấn đề nhân sinh và xã hội. Còn phát triển là làm cho sự vật lớn lên theo chiều tốt đẹp.

Tôi đồng cảm với ý kiến của ông Thành Duy khi bàn về triết lý phát triển Hồ Chí Minh khi ông cho rằng: “Triết lý phát triển của Hồ Chí Minh là triết lý phát triển xuất phát từ cách tiếp cận với văn hóa học, đặc biệt là văn hóa đạo đức và chủ nghĩa nhân văn”[1].

Quan niệm của tôi về triết lý phát triển Hồ Chí Minh là triết lý phát triển qua cuộc sống của chính ông. Đó là lý luận và thực tiễn trong cuộc đời Hồ Chí Minh về sự biến đổi các vấn đề nhân sinh và xã hội theo chiều hướng tốt đẹp. Triết lý phát triển Hồ Chí Minh thể hiện qua ngôn ngữ (nói và viết) và nhất là qua hành động trong cuộc sống của ông. Chính đó là triết lý phát triển qua cuộc sống. Theo đó, tôi lần theo một số khía cạnh, chỉ một số khía cạnh thôi, để cảm nhận về vấn đề này ở Hồ Chí Minh. Sự cảm nhận đó không chỉ một lần là xong, và không phải sự cảm nhận của ai ai cũng giống nhau. Sự cảm nhận đó đúng hay sai, nông hay sâu, đậm hay lạt, là do cái tâm thế và cái trí của từng người. Nói thế để thấy rằng, người đọc đừng vội cho điều này là đúng, điều kia là sai một cách dễ dàng.

Đọc tiếp »


President Ho Chi Minh’s Biography (1890-1969)

01/01/2010

Ho Chi Minh (alias Nguyen Sinh Cung, Nguyen Tat Thanh, and Nguyen Ai Quoc), was born on 19 May 1890 in Kim Lien Village, Nam Dan District, Nghe An Province.

His father was a patriotic scholar, his mother was a farmer. His older sister and brother both took part in the anti-French movements and were imprisoned by the colonial administration.

On 3 June 1911, Ho Chi Minh left the country. He lived on doing different jobs. He also participated in the revolutionary movements of many peoples while making great efforts to struggle for his nation’s independence and freedom. Ho Chi Minh was the first Vietnamese supporter to the Russian October Revolution and found the Marxism-Leninism the way to liberate the working class and peoples in colonial countries. In 1920, he took part in establishing the French Communist Party in the Tour Congress. In 1921, he founded the Union of French Colonial Nations; published the newspaper Le Paria in France (1922). In 1923, he became a member of the International Peasantry Committee. In 1924, he attended the Fifth Congress of Communist International and was appointed a standing member of the Oriental Department. In 1925, he participated in establishing the Union of Asian Oppressed Nations, and published the two famous books, The Indictment of French Colonialism (1925) and The Revolutionary Path (1927).

Đọc tiếp »


Chương 2: NHẬN THỨC LÀ MỘT QUÁ TRÌNH/Sách “Hồ Chí Minh – con người của sự sống”

01/01/2010

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

Theo dòng thời gian, tôi điểm lại những mốc lớn ghi dấu sự đánh giá về Hồ Chí Minh. Sự ghi dấu này cũng chỉ là tương đối, sự cắt lát, phân chia mốc thời gian có điều gì đó không ổn là do chính nhận thức còn hạn chế của tôi — tác giả của cuốn sách này.

I. Yếu tố thứ tư

Trong bài viết nhan đề “Ba mươi năm hoạt động của Đảng” cho Tạp chí Những vấn đề hoà bình và chủ nghĩa xã hội, số 2-1960, nhân dịp Kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chủ nghĩa Mác – Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”[1].

Đó là khái quát của Hồ Chí Minh về ba yếu tố cho sự ra đời và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Và, xin thông tin luôn cho độc giả trước khi phân tích: tôi cho rằng, có cả yếu tố thứ tư nữa, đó chính là Tư tưởng Hồ Chí Minh (Sự ra đời và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam = 1. Chủ nghĩa Mác – Lênin + 2. Phong trào công nhân + 3. Phong trào yêu nước + 4. Tư tưởng Hồ Chí Minh).

Ở đây, có hai điều tôi muốn bình luận.

MỘT PHÁT KIẾN CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ QUY LUẬT HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Đọc tiếp »


Chương 1: Lối vào di sản/Sách “Hồ Chí Minh – con người của sự sống”

01/01/2010

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

  1. Đường tiếp cận

Chân lý chỉ có một. Sự thật chỉ có một. Nhưng nhận thức của mỗi con người, mỗi cộng đồng có nhiều khi không phải chỉ một lần mà nhận thức đúng ngay được chân lý, đúng ngay được sự thật.

Có 1001 nguyên nhân.

Thông thường thì nhận thức là cả một quá trình từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa đầy đủ đến toàn diện, và có khi nó dích dắc, có khi nhận thức tưởng là được rồi, đúng rồi nhưng sau đấy lại phải nhận thức lại. Nhận thức của con người về những sự vật và hiện tượng trong thế giới tự nhiên không bao giờ thật đầy đủ và tuyệt đối chính xác. Nhận thức của con người là quá trình phản ánh giới tự nhiên, nhưng đó không phải là là sự phản ánh đơn giản, hoàn chỉnh, và có khi đó không phải là sự phản ánh trực tiếp. Đúng như có người nói: con người không thể nào nắm được, phản ánh được, miêu tả được toàn bộ cái thế giới tự nhiên một cách đầy đủ, mà con người chỉ có thể đi gần mãi đến đó, bằng cách tạo ra những khái quát trừu tượng, những khái niệm, những quy luật, những bức tranh khoa học về một thế giới chung quanh.

Con người là một trong những loài động vật có vú yếu ớt nhất trên trái đất, nhưng đồng thời con người cũng là chúa tể sức mạnh so với muôn loài. Sức mạnh đó không nằm ở cơ bắp, mà là ở tư duy, ở trí tuệ, ở trí khôn. Bộ não người có đến khoảng 100 tỷ nơrông (neuron) thần kinh, được kết nối với nhau thông qua khoảng 100 000 tỷ sợi liên bào (synapse). Đúng là nhận thức (hay tư duy) của con người là phức tạp nhất, rối rắm nhất, nhưng lại là sáng nhất và đó là một chuỗi khôn cùng trong cái biến thiên của thế giới tinh thần. Con người đã bay lên vũ trụ, bay lên được cả đến mặt trăng, mà ngay đầu thế kỷ XX có mơ cũng không tưởng tượng nổi. Con người còn khám phá ra bao nhiêu điều bí ẩn và phát minh ra bao nhiêu điều kỳ diệu trong cuộc sống. Thế kỷ XXI và các thế kỷ tiếp theo còn những điều gì nữa đây chứng tỏ sức mạnh vô biên từ trí tuệ của con người?[1]

Đã có rất nhiều ý kiến đánh giá về Hồ Chí Minh, nhận xét về cuộc đời và sự nghiệp của ông, đánh giá về vai trò của ông đối với tiến trình dân tộc Việt Nam cũng như đối với quá trình phát triển văn minh, tiến bộ của nhân loại…Ý kiến của người trong nước có, ngoài nước có; người cùng chính kiến với Hồ Chí Minh có; người khác chính kiến với Hồ Chí Minh cũng có; người sống cùng thời với Hồ Chí Minh có; người cùng làm việc với Hồ Chí Minh cũng có và cả những người thuộc thế hệ sau chưa từng gặp Hồ Chí Minh cũng có. Cũng như muôn vàn nhân vật lịch sử khác, Hồ Chí Minh được/bị mọi người nhìn nhận với nhiều con mắt khác nhau. Có người thì yêu, có người thì ghét, có cả người khác trận tuyến tuy không ưa ông (nếu phân thành tuyến ý thức hệ), nhưng lại vị nể ông.

Nhận thức của con người ta thường không theo con đường thẳng tắp. Nhận thức của Đảng Cộng sản, nhân dân Việt Nam cũng như của quốc tế, về Hồ Chí Minh, nói cụ thể hơn là nhận thức, đánh giá về vai trò, về sự cống hiến của Hồ Chí Minh đối với toàn bộ sự phát triển của dân tộc Việt Nam và quá trình phát triển văn minh, tiến bộ của nhân loại, không phải lúc nào cũng suôn sẻ. Nhận thức đó đầy góc cạnh, chiều cạnh, tuỳ từng lúc, từng người, tuỳ từng tâm trạng.

Vào thời điểm này nhìn lại thì tương đối thuận lợi hơn trong đánh giá về Hồ Chí Minh, nhưng trong những năm 20, 30, 40 của thế kỷ XX thật không đơn giản một tý nào. Thật ra, hiện vẫn còn không ít ý kiến trong các cuốn sách, bài đăng các báo, tạp chí, các bài trên mạng internet đánh giá rất cực đoan, rất sai về Hồ Chí Minh, nhất là từ khi có các sự biến chính trị diễn ra làm cho hệ thống xã hội chủ nghĩa không còn. Ghét sự nghiệp rồi ghét luôn cả con người của sự nghiệp đó. Bản chất của những ý kiến cực đoan đó hoàn toàn liên quan đến quan điểm không tán thành chế độ chính trị hiện hành của Việt Nam, một số ý kiến thấm đậm quan điểm chống cộng, thâm thù, phủ nhận vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đọc tiếp »


Lời mở đầu “Hồ Chí Minh – con người của sự sống”

01/01/2010

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

Trong thế giới của con người, có ba cái chết.

Cái chết thứ nhất là cái chết sinh học. Cái chết này được xác định khi con người đã nằm ở cõi vĩnh hằng. Nói như người Hà Nội thường hay đùa, thì là “đi Văn Điển”.

Cái chết thứ hai là cái chết chính trị, đạo đức. Nghĩa là người đó còn sống đấy, sống về sinh học, nhưng coi như đã chết, thậm chí bị người đời nguyền rủa, hoặc chẳng ai còn biết người đó còn ở trên đời này nữa.

Cái chết thứ ba là người đó đã chết sinh học rồi nhưng vẫn còn sống mãi, sống đẹp trong tâm khảm của những người chân chính, bởi người đó đã để lại tiếng thơm cho đời, để lại di sản tinh thần lớn lao cho nhân dân, cho dân tộc và cho nhân loại nhiều thế hệ. Người anh hùng dân tộc Bungari Khơrixtô Bôtép (1849-1876), một lãnh tụ của cuộc kháng chiến Bungari chống quân xâm lược Thổ Nhĩ Kỳ, viết rất hay rằng: “Người nào ngã xuống trong cuộc đấu tranh cho tự do thì người đó không bao giờ chết. Đất trời, thiên nhiên tiếc thương và ngợi ca muôn đời cuộc sống của người đó…”[1].

Trường hợp  Hồ Chí Minh chính là người thuộc cái chết thứ ba ấy.

Đọc tiếp »


Ý KIẾN VỀ TÁC PHẨM “HO CHI MINH: THE MISSING YEARS 1919 – 1941” (Hồ Chí Minh – Những năm tháng bị lãng quên 1919 – 1941) CỦA TÁC GIẢ SOPHIE QUINN – JUDGE

30/12/2009

Website TheheHoChiMinh.net nhận được bài viết của GS.Mạch Quang Thắng (một nhà nghiên cứu Hồ Chí Minh lâu năm và có uy tín, hiện đang công tác tại Học viện Chính trị – Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh), trao đổi về cuốn sách của Sophie Quinn, được lưu truyền từ khá lâu trên mạng.

Bài viết phản ánh quan điểm của tác giả. Quý bạn đọc có thể dùng biểu mẫu cuối bài để phản hồi, hoặc email tới hòm thư info@thehehochiminh.net

GS.TS MẠCH QUANG THẮNG

1. Một số điểm chú ý đầu tiên

Đây là tác phẩm đã được xuất bản tại Mỹ năm 2002 (University of California Press). Có thể nói rằng, cho đến nay, những nhà Hồ Chí Minh học (thực thụ) cả ở trong và ngoài nước Việt Nam không ai là không biết tác phẩm này. Có người biết qua những bài phân tích, những lời giới thiệu, những lời bình phẩm của đồng nghiệp. Có người đọc trực tiếp tác phẩm đó bằng tiếng Anh. Trên nhiều website, tác phẩm này của nữ tác giả Sophie Quinn – Judge đã được giới thiệu, bình luận không ít. Trong nhiều bài báo nghiên cứu Hồ Chí Minh của một số tác giả trong và ngoài nước ta, một số người đã tham khảo, nêu lại ý kiến hoặc trích dẫn nội dung của cuốn sách trên.

Tôi cho rằng, tác phẩm này đã được xuất bản công khai, được bày bán ở các cửa hàng sách, được đặt lên các giá sách thư viện, được đưa vào thư viện điện tử, v.v. Sự hiện diện của tác phẩm này ở Mỹ cũng như ở trên thế giới là điều bình thường khi có ai đó nghiên cứu về Hồ Chí Minh – một nhân vật đặc biệt không những trong lịch sử dân tộc Việt Nam mà còn cả trong tiến trình lịch sử thế giới thế kỷ XX.

Tôi chia những tác phẩm của các tác giả nước ngoài (kể cả người gốc Việt Nam) viết về Hồ Chí Minh thành hai loại chủ yếu: (i) loại nghiên cứu khoa học một cách nghiêm túc, tuy quan điểm và phương pháp nghiên cứu có khác với những nhà Hồ Chí Minh học của Việt Nam; (ii) loại có cái tâm không lành, có thái độ hằn học, thâm thù, chống cộng, chống sự nghiệp cách mạng Việt Nam, và đương nhiên chống cả Hồ Chí Minh, muốn “hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh” như họ đã tuyên bố công khai trên diễn đàn của cái gọi là “Khối 8406”.

Tôi cho rằng, tác phẩm của bà Sophie Quinn – Judge Ho Chi Minh: The Missing Years 1919 – 1941 (và nếu kể thêm một người Mỹ nữa có công trình khoa học về Hồ Chí Minh gần đây nhất là William J.Duiker với tác phẩm Ho Chi Minh: A Life, Hyperion, New York, 2000) là thuộc loại (i) theo sự phân loại trên đây. Năm 2005, trong một lần đến làm việc tại Trường Quản lý nhà nước Kennedy thuộc Đại học Harvard (Mỹ), khi tôi trao đổi ý kiến về hai tác phẩm này với một số giáo sư ở đó thì người ta khen tác phẩm Ho Chi Minh: The Missing Years 1919 – 1941 của bà Sophie Quinn – Judge hơn là tác phẩm Ho Chi Minh: A Life của ông William J.Duiker. Bà Sophie Quinn – Judge là nhà nghiên cứu triết học, lịch sử đã có nhiều công trình khoa học liên quan đến Việt Nam (cũng có thể gọi bà là nhà Việt Nam học). Bà đã nhiều lần sang Việt Nam dự hội thảo, trong đó năm 2009 đến Học viện Chính trị – Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh dự hội thảo khoa học trong khuôn khổ hợp tác với Viện Triết học của Học viện.

Đọc tiếp »


Quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo tiến hành công tác dân vận theo tư tưởng Hồ Chí Minh

16/12/2009

PGS.TS Dương Xuân Ngọc

Tạp chí Dân vận tháng 10/2005

Công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng đất nước ta, cả trong thời kỳ chưa có chính quyền lẫn thời kỳ Đảng cầm quyền; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền và toàn xã hội, thắt chặt mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với dân. Cần quán triệt quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo tiến hành công tác dân vận theo tư tuởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ mới.

Một là, công tác dân vận phải xuất phát từ lợi ích của quần chúng nhân dân, thực hiện và bảo vệ lợi ích của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng không có lợi ích nào khác “Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là của dân tộc, không thiên tư, thiên vị”; Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở cán bộ, đảng viên, các tổ chức Đảng và chính quyền phải thực hành phương châm: “Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân, ta phải hết sức tránh”. Trước lúc đi xa Người còn không quên căn dặn: “Việc cần làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ mà Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân”. Trong bất kỳ thời kỳ nào vẫn là việc của dân, do dân và vì dân.

Hai là, thực hành dân chủ là phương thức cơ bản của công tác dân vận.

Đọc tiếp »


Phương pháp dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua bài báo “Dân vận”- ý nghĩa thực tiễn

15/12/2009

TS Nguyễn Thanh Tuyền

Tạp chí Dân vận tháng 10/2005.

Dân vận là bài báo được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào ngày 15-10-1949. Đây là thời điểm mà công cuộc “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” của dân tộc ta ở vào thời điểm vô cùng gay go, quyết liệt; đòi hỏi công tác vận động quần chúng của Đảng phải đi vào chiều sâu, cụ thể, thiết thực nhằm động viên tối đa sức người, sức của cho kháng chiến. Tác phẩm “Dân vận” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn về nội dung, phương pháp dân vận vô cùng sâu sắc nhưng hết sức giản dị tỏ rõ phong cách của vị lãnh tụ thiên tài.

Trước khi bàn về nội dung, phương pháp dân vận, Người đã chỉ rõ cho cán bộ, đảng viên thấm nhuần về bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta đó là: “nước ta là nước dân chủ”. Chính nhờ có bản chất tốt đẹp đó mà Đảng ta đã hiệu triệu được toàn dân đứng lên theo Đảng tiến hành sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Và đây cũng là mục tiêu phấn đấu suốt cuộc đời hoạt động của Người để xây dựng một nhà nước tốt đẹp, trong đó người dân thực sự là chủ: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”.

Theo Hồ Chí Minh, giải quyết vấn đề dân chủ là đi vào cái rất cụ thể đó là mối quan hệ giữa lợi ích và quyền lợi, giải quyết mối quan hệ về lợi ích nhưng lợi ích phải được ràng buộc bởi trách nhiệm, nghĩa vụ, bổn phận. Sự ràng buộc ấy chính là dân chủ. Người chỉ rõ, người dân chỉ biết giá trị của dân chủ khi được ăn no mặc ấm. Do đó, cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí, thực hành dân chủ là mục tiêu và động lực của công tác quần chúng. Theo Hồ Chí Minh, thực hành dân chủ rộng rãi để dân thực sự là chủ, biết làm chủ, hiểu được quyền và nghĩa vụ của người chủ, đó là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết được mọi khó khăn.

Nghiên cứu kỹ bài báo “Dân vận” cho ta thấy tư tưởng rất rõ của Hồ Chí Minh là: “từ dân, vì dân”. Người bàn đến vấn đề dân chủ và muốn có được dân chủ phải làm công tác dân vận. Bản chất công tác dân vận của Hồ Chí Minh là “vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể đã giao cho. Trong quy trình dân vận Người luôn đặc biệt chú ý đến vấn đề dân chủ. Người chỉ rõ: “Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra sức thi hành”, “Khi thi hành xong phải cùng dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”.

Đọc tiếp »


Đọc lại bài báo “Dân vận” của Bác Hồ: Nghĩ về công tác vận động đồng bào dân tộc thiểu số hiện nay

15/12/2009

Vũ Ngọc Lân

Ban Dân vận Trung ương
Tạp chí Dân tộc, số 46 (10-2004)

Cách đây đúng 55 năm, với bút danh X.Y.Z, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài báo “Dân vận” đăng trên Báo Sự Thật số ra ngày 15-10-1949.

Bài báo chỉ có 612 chữ, nhưng đã đề cập giải đáp những vấn đề rất căn bản, cấp thiết của công tác vận động quần chúng nhân dân tham gia các phong trào cách mạng của các tổ chức đảng, các cấp chính quyền và đoàn thể nhân dân. Bài báo “Dân vận” của Bác Hồ là một tác phẩm kinh điển, mẫu mực, là cẩm nang của cán bộ, đảng viên trong công tác vận động quần chúng hiện nay và mai sau.

Với bài báo ấy, người đọc dù ở trình độ nào cũng hiểu. Bác đã dùng cách đặt câu hỏi và trả lời ngắn gọn, giản dị, dễ hiểu để làm rõ một số vấn đề cơ bản của công tác dân vận.

Mở đầu bài báo, Bác viết: “Vấn đề dân vận nói đã nhiều, bàn đã kỹ nhưng vì nhiều địa phương, nhiều cán bộ chưa hiểu thấu, làm chưa đúng cho nên cần phải nhắc lại”. Tiếp đó Bác Hồ đề cập, lý giải 4 vấn đề cơ bản, quan trọng và rất thiết thực trong công tác dân vận:
Đọc tiếp »


DÂN VẬN

15/12/2009

X.Y.Z.

Vấn đề Dân vận nói đã nhiều, bàn đã kỹ nhưng vì nhiều địa phương, nhiều cán bộ chưa hiểu thấu, làm chưa đúng, cho nên cần phải nhắc lại.

I- NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.

Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân.

Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.

Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.

II- DÂN VẬN LÀ GÌ ?

Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho.

Đọc tiếp »


THÔNG BÁO Của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về một số vấn đề liên quan đến Di chúc và ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh

15/12/2009

Thông báo số 151-TB/TW, ngày 19 tháng 8 năm 1989 lý giải về các bản Di chúc khác nhau của Chủ tịch Hồ Chí Minh, về bản công bố chính thức năm 1969 cũng như ngày mất thực sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh. TheheHoChiMinh.net xin giới thiệu văn bản quan trọng này tới bạn đọc, kèm theo thông báo này có các phiên bản gốc của Di chúc, bản đánh máy, cũng như bút tích viết tay của Hồ Chủ tịch.

Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta một bản Di chúc vô cùng quý báu. Dinh chúc được công bố ngay sau khi Bác qua đời và đã trở thành một nguồn cổ vũ lớn đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiến lên giành thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng Tổ quốc, thống nhất đất nước và đưa nước nhà vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Song do hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ mà có một số điều chưa được công bố.

Nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày Bác qua đời và chuẩn bị kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Bác, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IV) thấy có trách nhiệm thông báo đến toàn Đảng, toàn dân một số vấn đề liên quan đến Di chúc của Bác và ngày Bác qua đời.

1 – Về tài liệu gốc Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Đọc tiếp »


Nguyên văn các bản viết Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và bản công bố chính thức năm 1969

15/12/2009

Bản 1:

VIỆT NAM DÂN CHỦ CÔNG HOÀ
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
————————-

Tuyệt đối bí mật Nhân dịp mừng 75 tuổi

Người làm thơ rất nổi tiếng, ở Trung Quốc đời nhà Đường là cụ Đỗ Phủ có câu thơ rằng “hân sinh thất thập cổ lai hy”. Nghĩa là: Người thọ 70, xưa nay hiếm.

Đọc tiếp »


Hồ Chí Minh – nhà tư tưởng, nhà lý luận cách mạng sáng tạo

15/12/2009

GS  SONG THÀNH

I. Quan niệm về nhà tư tưởng, nhà lý luận

Đến nay, vẫn không tránh khỏi còn có người băn khoăn một cách thành thật: xét về vị thế, gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà văn hóa kiệt xuất, điều đó không cần phải bàn cãi, nhưng còn nhà tư tưởng, nhà lý luận?

Bác Hồ không để lại cho chúng ta những công trình đồ sộ có tính chất lý luận chung, hoàn chỉnh và hệ thống, mà phần lớn chỉ là những bài báo, thư từ, lời kêu gọi… Gọi là tác phẩm, thì như người đã từng nói: trong đời mình, Người chỉ viết có một tác phẩm duy nhất là “Bản án chế độ thực dân Pháp”.

Đọc tiếp »


Đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc về Chủ tịch Hồ Chí Minh

15/12/2009

GS. TS MẠCH QUANG THẮNG

Hiện nay đã có nhiều thế lực thâm thù chủ nghĩa cộng sản, thâm thù cách mạng Việt Nam tìm mọi cách xuyên tạc cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh. Do đó cần tăng cường các giải pháp đấu tranh, trong đó đặc biệt chú trọng việc giáo dục, tuyên truyền về Chủ tịch Hồ Chí Minh; nâng cao ý thức cảnh giác và tăng cường đấu tranh trực diện với các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.

I. Mục đích của xuyên tạc

1. Từ sự thâm thù chủ nghĩa cộng sản

Hồ Chí Minh là một nhân vật phản ánh một phần tất yếu của sự phát triển dân tộc Việt Nam. Đã có nhiều thế lực thâm thù chủ nghĩa cộng sản, thâm thù cách mạng Việt Nam tìm mọi cách xuyên tạc cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đọc tiếp »


30 năm tôi đi tìm Hồ Chí Minh

15/12/2009

TRẦN CHUNG NGỌC
(Wisconsin – Hoa Kỳ)
Theo Tạp chí Hồn Việt

Lời toà soạn: Hồ Chí Minh – Bác Hồ, cái tên luôn gợi lên trong mỗi người Việt Nam bao nhiêu nỗi xao xuyến, xúc động vì “Người là niềm tin thiết tha nhất”. Thế nhưng, cũng không ít lần những người Việt Nam ấy phải nghẹn lòng, phẫn nộ khi nghe xem đọc những thông tin xuyên tạc về Người. Không thể đôi co, không thể nóng giận, những người Việt hiểu biết vẫn điềm tĩnh và tỉnh táo để giữ vững niềm yêu kính vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc mình. Bài viết này là một trong những cái nhìn tỉnh táo và điềm tĩnh ấy.

Chúng tôi xin giới thiệu toàn văn bài viết “30 năm tôi đi tìm Hồ Chí Minh” – đăng trên Tạp chí Hồn Việt – của Tiến sĩ Trần Chung Ngọc, một nhà khoa học Việt kiều đã định cư tại Mỹ từ sau 1975, một sĩ quan đã từng cầm súng ở bên kia chiến tuyến đối mặt với những anh bộ đội cụ Hồ…

Tác giả viết theo phương châm khoa học: “sự lương thiện trí thức phải để lên hàng đầu, và phương pháp khảo cứu mọi vấn đề phải cẩn trọng, không để cho tình cảm, thiên kiến lôi cuốn” để mang lại cho các bạn đọc trẻ “một sự hiểu biết đúng đắn về cuộc đời của Hồ Chí Minh, và nhất là, về việc ông đã làm gì cho đất nước Việt Nam”.

***

Viết về một nhân vật có tầm vóc quốc tế như Hồ Chí Minh có thể nói là không dễ. Đối với những người thuộc giới chống Cộng viết theo cảm tính thù hận, khi thực sự chưa hiểu và không biết gì về Hồ Chí Minh thì rất dễ, vì muốn viết sao cũng được. Họ đưa ra những chi tiết lặt vặt, cộng với xuyên tạc, dựng đứng… nhằm “ám sát tư cách cá nhân”, bằng những từ hạ cấp cho hả lòng thù hận, thì có lẽ ai viết cũng được, không cần đến trí tuệ, không cần đến kiến thức, không cần đến trình độ, và cũng không cần đến liêm sỉ.

Đọc tiếp »


Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm tuyển chọn, đào tạo cán bộ viên chức Nhà nước

15/12/2009

Lê Ngân Mai

Tạp chí Hà Nội ngàn năm

Vấn đề cốt yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH, công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta là một cuộc cách mạng mang tính toàn diện bao gồm 3 lĩnh vực: Chính trị tư tưởng, Cơ cấu kinh tế, Văn hóa xã hội. Nhưng muốn xây dựng thành công CNXH thì trước hết phải hoàn thiện được yếu tố chủ đạo là tư tưởng và con người XHCN, trong đó người cán bộ rất quan trọng bởi: “Con người XHCN là con người có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng”.

Xác định được vị trí và vai trò của cán bộ là tiền vốn của đoàn thể – cái gốc của mọi công việc nên Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu người cán bộ mẫu mực phải có đức có tài lấy Đức là chính, phải khắc phục mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, xa rời quần chúng, hống hách kiểu quan cách mạng, quan liêu, tham nhũng, vô trách nhiệm dẫn đến chia rẽ, cục bộ địa phương và kết quả tất yếu là hỏng việc. Tư tưởng về cán bộ của Người bao gồm một hệ thống nhằm hoàn thiện và nâng cao những phẩm chất tốt đẹp của cán bộ, đảng viên, thể hiện sinh động sự phát triển tất yếu của con người mới XHCN. Những tiêu chuẩn cụ thể của cán bộ công chức Nhà nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh là:

Đọc tiếp »


Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh – tư tưởng bất diệt

15/12/2009

PGS.TS Lê Doãn Tá

Hồ Chí Minh quan niệm: Con người không phải là thần thánh, có cả cái tốt và cái xấu. Bởi vậy, phải “làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi”. Người yêu cầu phải thức tỉnh, tái tạo lương tâm, đánh thức những gì tốt đẹp trong con người.

Quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã hun đúc nên truyền thống nhân ái của dân tộc ta. Nhân dân ta đã trải qua mấy ngàn năm chinh phục thiên nhiên, chống thiên tai, bão lụt, khai hoang mở đất. Nhân dân ta lại phải chống chọi với nạn ngoại xâm liên miên từ phương Bắc xuống, rồi chủ nghĩa thực dân phương Tây xâm lược. Công cuộc lao động gian khổ và chiến đấu hy sinh hun đúc nên truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, trong đó nổi bật là lòng nhân ái, là tư tưởng nhân văn, nhân đạo.

Đọc tiếp »


Điều kiện lịch sử – xã hội và nguồn gốc xuất hiện tư tưởng Hồ Chí Minh

15/12/2009

PGS, TS. Lê Doãn Tá

1.Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, mỗi khi Tổ quốc lâm nguy thì non sông đất nước ta lại sản sinh ra những anh hùng dân tộc, đáp ứng yêu cầu của lịch sử, tiêu biểu cho sự phát triển của lịch sử. Trải qua các triều đại Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê và Tây Sơn, biết bao anh hùng do lịch sử sản sinh ra đã làm rạng rỡ non sông đất nước ta. Đến thời nhà Nguyễn, vua quan đồi bại, thối nát, đầu hàng, đất nước rơi vào tay thực dân Pháp. Nhân dân ta kẻ trước ngã, người sau đứng dậy, mưu cầu giải phóng song chưa có đường lối đúng nên cách mạng chưa thành công. Phan Bội Châu chủ trương cầu ngoại viện, dùng bạo lực để khôi phục độc lập không thành. Phan Chu Trinh muốn “ỷ Pháp cầu tiến bộ” khai thông dân trí, nâng cao dân khí để tính chuyện giải phóng lại cũng không thành. Người anh hùng Yên Thế – Hoàng Hoa Thám nổi dậy, dũng cảm trong đấu tranh chống Pháp, song “còn nặng cốt cách phong kiến”, chưa có phương hướng chính xác, chưa có lối thoát rõ ràng. Cuộc nổi dậy thất bại. Con thuyền Việt Nam còn lênh đênh chưa rõ bến bờ phải đi tới.

Chính lúc đó, Nguyễn Ái Quốc (tức Hồ Chí Minh) đã xuất hiện. Vượt lên những hạn chế của các nhà yêu nước đương thời, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng tiên tiến nhất của thời đại. Con đường cứu nước đúng đắn đã được tìm thấy. “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.

Đọc tiếp »


Chủ Tịch Hồ Chí Minh với việc giáo dục lịch sử dân tộc

15/12/2009

Nguyễn Quang Hà

Tạp chí Khoa Giáo tháng 4/2005

Chủ Tịch Hồ Chí Minh – Người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới – là biểu tượng của truyền thống kiên cường bất khuất trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

Cả cuộc đời Người luôn luôn kiên định: ”Tôi chỉ có một ham muốn ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc ai cũng được học hành”.

Hồ Chí Minh chưa bao giờ lấy sự nghiệp văn chương làm cứu cánh, cũng như Người chưa bao giờ chủ định làm một nhà sử học. Nhưng qua những bài báo, qua lời phát biểu, qua những di sản tinh thần đó để lại cho chúng ta thấy được Chủ tịch Hồ Chí Minh là người quan tâm đặc biệt đến việc giáo dục lịch sử cho thế hệ sau.

Trước tiên, cần phải thấy được Hồ Chí Minh có đầy đủ tố chất của một nhà nghiên cứu sử học. Sinh ra trong một gia đình Nho học có truyền thống khoa bảng, được thừa hưởng một di sản văn học lịch sử phong phú của dân tộc, từng đi khắp năm châu, thêm vào đó là tác phong luôn đi sâu, đi sát với thực tế đời sống, là người từng trực tiếp chứng kiến biết bao những sự kiện đổi thay lớn lao của nhân loại, của đất nước, cho nên các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh có sức thuyết phục và làm lay động lòng người và phản ánh được nhiều vấn đề lớn lao của thời đại. Không chỉ đi nhiều, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh còn là người ham học, ham hiểu biết, thông thạo nhiều ngoại ngữ Anh, Pháp, Hoa,… và uyên thâm Hán học, thông kim, bác cổ, hiểu biết sâu sắc về văn hoá phương Đông và phương Tây, lại được trang bị phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác- Lê nin.

Nói như nhà sử học nổi tiếng đời Đường (Trung Quốc) Lưu Tử Huyền (tức Lưu Tri Cơ) thì một người viết sử phải có ba sở trường: Tài, Học, Thức. Như thế thì Nguyễn Ái Quốc có đầy đủ các sở trường đó để trở thành một nhà sử học hiện đại. Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã lấy các đề tài lịch sử như ”Kịch con rồng tre”, “Lời than vãn của bà Trưng Trắc”… để tuyên truyền thức tỉnh đồng bào. Hoặc cũng có khi người trực tiếp viết các bài báo về lịch sử.

Không chỉ nghiên cứu những vấn đề mới mẻ ở phương Tây, Nguyễn Ái Quốc còn tìm hiểu cả những vấn đề xa xưa như Nho giáo và Khổng Tử từ những năm tuổi đời còn rất trẻ. Vào những năm 20 của thế kỷ XX, Trung Quốc dấy lên phong trào phê phán Khổng giáo, chính phủ Trung Hoa dân quốc ban hành xoá bỏ những nghi lễ tưởng niệm Khổng Tử. Bằng cách nhìn khoa học, Nguyễn Ái Quốc đã phân tích những mặt tích cực đồng thời chỉ ra những hạn chế của Khổng Tử do thời đại mang lại. Người nhận xét: “…Nhưng cách đây 20 thế kỷ, chưa có chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc chưa bị áp bức như chúng ta ngày nay, cho nên bộ óc Khổng Tử không bao giờ khuấy động vì các hoc thuyết cách mạng. Đạo đức của ông là hoàn hảo nhưng nó không thể dung hợp được với các trào lưu tư tưởng hiện đại, giống như một cái nắp tròn, làm thế nào để có thể đậy kín được cái hộp vuông?”. Và Người đã thẳng thắn chỉ ra: “với việc xoá bỏ những nghi lễ tưởng niệm Khổng Tử, chính phủ Trung Quốc đã làm mất đi một thể chế cũ và trái tim với tinh thần dân chủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình về mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lê nin .

Trở về đất nước sau hơn 30 năm xa cách, Người bí mật hoạt động ở Pác Pó (Cao Bằng). Tại đây, Người đã dịch ”Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô”.

”Sáng ra bờ suối tối vào hang.

Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.

Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.

Cuộc đời cách mạng thật là sang.”

Đặc biệt, trong thời gian vào khoảng cuối năm 1941; tại Cao Bằng, Hồ Chí Minh đã viết tập ”Lịch sử nước ta”. Đây là tập diễn ca lịch sử viết ra làm tài liệu học tập cho cán bộ trong các lớp huấn luyện ở chiến khu Việt Bắc và được phổ biến rộng rãi trong nhân dân nhằm giáo dục, phát huy lòng yêu nước, yêu truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc, góp phần chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám năm 1945. Tập “lịch sử nước ta” được diễn đạt bằng thể thơ lục bát dễ thuộc, dễ nhớ, gồm 198 cầu Tác phẩm này được in nhiều lần vào các năm 1942, 1947, 1949… Quyển sách trình bày lịch sử nước ta từ thời Hồng Bàng, trải qua các triều đại như Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn và cho đến tận phong trào Việt Minh lúc đó. Từ trong lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh đã tìm được phương thức ”dựa vào dân để có sức mạnh”. Người khẳng định anh hùng làm nên sự nghiệp cao cả vì biết dựa vào dân, Người đánh giá cao vai trò của cá nhân và khẳng định vai trò quyết định của nhân dân.

Bằng cách viết ngắn gọn, súc tích, Người đã nêu lên những tấm gương sáng cho mọi tầng lớp học tập, noi theo như ”Người già như ông Lý Thường Kiệt quá 70 tuổi mà vẫn đánh Đông dẹp Bắc, thiếu niên như Trần Quốc Toản, mới 15 tuổi đã giúp ông Trần Hưng Đạo đánh phá giặc Nguyên. Phụ nữ như Bà Trưng, Bà Triệu ra tay khôi phục giang san…” và Người nhận xét: “lịch sử ta dạy cho ta bài học: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”.

Không chỉ là người biên soạn lịch sử, luôn quan tâm đến việc giáo dục lịch sử cho thế hệ sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là người rất trân trọng các nhà sử học. Những người có may mắn được gần gũi Bác kể lại: Những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước còn đang gay go, quyết liệt, ,bên cạnh đầu giường Bác nằm luôn đặt quyển sách ”Cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông Nguyên thế kỷ XIII” của soạn giả Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm và trước khi đi xa, Người còn gửi lời hỏi thăm đến các tác giả của cuốn sách.

Mặc dù không phải là một nhà sử học chuyên nghiệp nhưng thông qua các tác phẩm để lại và hoạt động cách mạng cứu nước, cứu dân, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã dùng lịch sử để tuyên truyền cách mạng, khơi dậy truyền thống bất khuất cứu nước, cứu nòi đã có hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Bác căn dặn phải biết ơn tổ tiên, cội nguồn và giữ vững non sông đất nước. Mỗi người dân Việt Nam đều thuộc lòng câu nói nổi tiếng giản dị mà sâu sắc của Người:

”Các vua Hùng đã có công dựng nước

Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.


Tư tưởng Hồ Chí Minh – sự thống nhất giữa “đức trị” với “pháp trị”

15/12/2009

PGS. TS Bùi Đình Phong

Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Bài viết đề cập đến quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa “đức trị” với “pháp trị”; sự thực thi vấn đề “đức trị” và “pháp trị” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở cách mạng, khoa học và nhân nghĩa, nói đi đôi với làm, vì hạnh phúc của nhân dân.

Ra đi tìm đường cứu nước năm 1911, Hồ Chí Minh nuôi dưỡng khát vọng thành lập một nhà nước kiểu mới. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trên cơ sở những nhận thức trước đây về một nhà nước “phải có thần linh pháp quyền”, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến quyền lực của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải thuộc về nhân dân, lợi ích phải vì dân. Đó phải là một nhà nước dân chủ – dân là chủ và dân làm chủ. Đồng thời nhà nước đó phải được vận hành và quản lý bằng pháp luật kết hợp chặt chẽ với việc giáo dục đạo đức. Quan niệm về sự thống nhất giữa “đức trị” với “pháp trị” trong tư tưởng Hồ Chí Minh có nguồn gốc sâu xa từ truyền thống văn hóa phương Đông và từ tấm gương trị nước của các vị vua chúa hiền minh trong lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, vượt lên tất cả những ông vua đức độ và kẻ sĩ hiền tài, trong quá trình trị vì đất nước, Hồ Chí Minh đã thực thi triệt để vấn đề “đức trị” với “pháp trị” trên cơ sở cách mạng, khoa học và nhân nghĩa, nói đi đôi với làm vì hạnh phúc của nhân dân.

Đọc tiếp »


Các câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

11/12/2009

Để bổ sung, hãy email tới Ban Quản trị hoặc phản hồi cuối bài này.

1. Không có gì quý hơn độc lập, tự do !

2. Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.

3. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một; sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi.

4. Tôi nói, đồng bào có nghe rõ không?

5. Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.

Đọc tiếp »


Tích hợp và tự sinh trong văn hóa Hồ Chí Minh

11/12/2009

Phan Công Khanh
Tạp chí Khoa học xã hội

Nhân loại không thiếu những anh hùng dân tộc, những đanh nhân văn hóa có tầm ảnh hưởng sâu rộng đối với sự phát triển của đất nước họ, sự vận động chung của lịch sử nhân loại. Hồ Chí Minh là hiện thân của nhiều giá trị, đặc sắc về tính dân tộc nhưng vẫn bao hàm những yếu tố phổ quát của nhân loại.

Trên thực tế, văn hóa Hồ Chí Minh với tư cách là một khái niệm tổng thể nhằm chỉ những giá trị tốt đẹp toát ra từ toàn bộ cuộc đời và nhân cách vĩ đại của Hồ Chí Minh đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều người.

Văn hóa Hồ Chí Minh trước hết là văn hóa của sự tích hợp. Cái “không phải văn hóa Châu Âu tỏa ra từ Nguyễn Ái Quốc mà Ôxíp Manđenxtam nhận ra từ năm 1923 đã cho thấy sự tích hợp đó. Dự cảm của nhà thơ Xô Viết này đã mặc nhiên thừa nhận “nền văn hóa tương lai” tỏa ra từ Nguyễn Ái Quốc là một sự tích hợp, trong đó có văn hóa Châu Âu. Đứng về phía Manđenxtam có cả những người Mỹ: “Hồ Chí Minh là một trong số các nhân vật lạ lùng nhất của thời đại chúng ta – pha trộn một chút Găngđi một chút Lênin, hoàn toàn Việt Nam.

Đọc tiếp »


Tư tưởng Hồ Chí Minh về thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều

11/12/2009

Trần Văn Phòng
Tạp chí Khoa học xã hội

Một trong những di sản lý luận mà Hồ Chí Minh để lại cho chúng ta là tư tưởng về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn như một biện pháp cơ bản nhằm ngăn ngừa, khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều.

Hồ Chí Minh dùng nhiều cách diễn đạt khác nhau: “Lý luận đi đôi với thực tiễn”, “Lý luận kết hợp với thực hành”, “Lý luận và thực hành phải luôn luôn đi đôi với nhau”, “Lý luận phải liên hệ với thực tế (Hồ Chí Minh, 1995, tập 9, tr. 292). Dù nói “đi đôi”, “gắn liền”, “kết hợp” nhưng điều cốt lõi nhất mà Người muốn nhấn mạnh là: “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 8, tr. 496). Như vậy, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được Hồ Chí Minh hiểu trên tinh thần biện chứng: thực tiễn cần tới lý luận soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo, hướng dẫn, định hướng để không mắc phải bệnh kinh nghiệm, còn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn, nếu không sẽ mắc phải bệnh giáo điều. Nghĩa là thực tiễn, lý luận cần đến nhau, nương tựa vào nhau, hậu thuẫn, bổ sung cho nhau.

Hồ Chí Minh cho rằng, để quán triệt tốt nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nhằm khắc phục bệnh kinh nghiệm thì trước hết cần khắc phục bệnh kém lý luận, bệnh khinh lý luận. Bởi lẽ, kém lý luận, khinh lý luận nhất định sẽ dẫn tới bệnh kinh nghiệm. Hơn nữa, không có lý luận thì trong hoạt động thực tiễn người ta dễ chỉ dựa vào kinh nghiệm, dễ dẫn tới tuyệt đối hoa kinh nghiệm, cho kinh nghiệm là yếu tố quyết định thành công trong hoạt động thực tiễn. Nếu không có lý luận hay trình độ lý luận thấp sẽ làm cho bệnh kinh nghiệm thêm trầm trọng, thêm kéo dài. Thực tế cho thấy, ở nước ta có không ít cán bộ, đảng viên “chỉ bo bo giữ lấy kinh nghiệm lẻ tẻ. Họ không hiểu rằng lý luận rất quan trọng cho sự thực hành cách mạng. Vì vậy, họ cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm, không hiểu rõ toàn cuộc của cách mạng” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 247). Những cán bộ ấy quên rằng, “kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi. Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 234). Thực chất là họ không hiểu vai trò của lý luận đối với thực tiễn. Theo Hồ Chí Minh, lý luận có vai trò hết sức to lớn đối với thực tiễn, lý luận “như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 234 – 235). “Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối vừa chậm chạp vừa hay vấp váp” (Hồ Chí Minh, 1995, tập 6, tr. 47). Làm mò mẫm chính là biểu hiện của bệnh kinh nghiệm. Kém lý luận, khinh lý luận không chỉ dẫn tới bệnh kinh nghiệm mà còn dẫn tới bệnh giáo điều. Bởi lẽ, do kém lý luận, khinh lý luận nên không hiểu thực chất lý luận, chỉ thuộc câu chữ lý luận và do đó cũng không thể hiểu được bản chất những vấn đề thực tiên mới nảy sinh. Do đó, không vận dụng được lý luận vào giải quyết những vấn đề thực tiễn mới nảy sinh. Nếu có vận dụng thì cũng không sát thực tế không phù hợp với thực tiễn.

Đọc tiếp »


Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh

11/12/2009

GS.Song Thành
Tạp chí Triết học

Phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh là sự vận dụng thuần thục phương pháp biện chứng duy vật macxít

Hồ Chí Minh không có tác phẩm riêng bàn về phương pháp. Nhưng trong thực tế lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng sáng tạo và nhuần nhuyễn các nguyên lý của phép biện chứng duy vật macxít kết hợp với các yếu tố biện chứng của triết học phương Đông qua đó tạo nên một hệ thống phương pháp riêng của mình, rất macxít mà cũng rất Hồ Chí Minh, không trộn lẫn được. Vì vậy, có thể nói, có phương pháp biện chứng của Hồ Chí Minh, phương pháp đó vẫn là phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin nhưng đã được vận dụng và chuyển hoá vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để xử lý thành công những vấn đề do thực tiễn cách mạng Việt Nam đặt ra, nó in đậm màu sắc Việt Nam – Hồ Chí Minh và bằng cái riêng đã làm phong phú thêm cái chung.

Vậy nội dung và đặc điểm của phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh là gì?

Đọc tiếp »


Những tên gọi, bí danh, bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh

11/12/2009

Sưu tầm

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có hơn 30 năm hoạt động ở nước ngoài. Người qua 4 châu lục, 3 đại dương, đặt chân lên gần 30 nước, làm hàng chục nghề khác nhau. Trong điều kiện hoạt động cách mạng bí mật, Người phải thay đổi họ tên rất nhiều lần. Mọi khó khăn, gian khổ, nguy hiểm không làm Người chùn bước. Bất kỳ ở đâu, trong hoàn cảnh nào, Người cũng chỉ có một mục đích như chính Người đã từng nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo là vì mục đích đó”.

Từ Nguyễn Sinh Cung, đến tên gọi Văn Ba khi xuất dương tìm đường cứu nước, rồi trở thành Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, Người đã dùng nhiều tên gọi, bí danh, bút danh khác nhau. Đây là một bằng chứng sinh động nhất về cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi, phong phú của Chủ tịch Hồ Chí Minh – anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.

Mỗi tên gọi, mỗi bí danh Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng phần lớn đều gắn với những sự kiện lịch sử, những bước ngoặt quan trọng trong hành trình cứu nước của Người, trong từng chặng đường của cách mạng Việt Nam đều mang ý nghĩa nhất định. Nhiều bài báo, tác phẩm Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sử dụng bút danh là những tác phẩm lý luận quan trọng, là cẩm nang chỉ đường cho Đảng và nhân dân ta trong mỗi bước đường cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh – Người sáng lập nền báo chí cách mạng Việt Nam và là một nhà báo có một khối lượng bài viết lớn: khoảng 2.000 bài.

Trên cơ sở tài liệu lưu giữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh, qua một số sách báo công bố, cho đến nay chúng ta mới tập hợp được 174 tên gọi, bí danh và bút danh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dùng.

Trong khuôn khổ bài viết với mục đích giúp bạn đọc có tư liệu để nghiên cứu, chúng tôi trích nêu một số tên gọi, bí danh, bút danh và thông tin cần thiết xung quanh mỗi tên gọi, mỗi bí danh và bút danh của Người.

Đọc tiếp »


Chương 8: Chủ tịch Hồ Chí Minh sống mãi

11/12/2009

I- THỰC HIỆN DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng trái tim của Người vẫn đập trong hàng ngàn, hàng triệu trái tim nhân dân Việt Nam anh hùng. Trước anh linh Người, thay mặt toàn thể nhân dân Việt Nam, Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam  Lê Duẩn đã đọc lời thề thể hiện quyết tâm của nhân dân ta:

“Giương cao mãi mãi ngọn cờ độc lập dân tộc, quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước để thoả lòng mong ước của Người”.

Biến đau thương thành hành động cách mạng, kế tục sự nghiệp của Người, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định mở đợt sinh hoạt chính trịHọc tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, với mục đích làm cho mọi người hiểu sâu sắc hơn sự nghiệp cách mạng vĩ đại và học tập tấm gương đạo đức Bác Hồ.

Ngày 6-3-1970, Bộ Chính trị Trung ương Đảng mở cuộc vận độngNâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh.

Đọc tiếp »


Chương 7: Lãnh đạo sự nghiệp xây dựng miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc (1954 -1969)

11/12/2009

I- LÃNH ĐẠO CÔNG CUỘC KHÔI PHỤC VÀ CẢI TẠO MIỀN BẮC, ĐẤU TRANH ĐÒI THI HÀNH HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ VÀ CHUYỂN HƯỚNG CUỘC ĐẤU TRANH YÊU NƯỚC CỦA ĐỒNG BÀO MIỀN NAM (1954 -1960)

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi đã mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Hoà bình được lập lại ở Đông Dương, miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng. Miền Nam, đế quốc Mỹ hất cẳng thực dân Pháp, biến nửa nước ta thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ, chuẩn bị gây lại chiến tranh tiến công nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và các nước xã hội chủ nghĩa. Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng là kẻ thù chính nguy hiểm nhất và hung ác nhất của toàn dân ta.

Trước tình hình mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng nêu lên hai nhiệm vụ chiến lược phải đồng thời tiến hành: xây dựng miền Bắc, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Cả hai nhiệm vụ ấy đều nhằm mục tiêu chung là củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, thiết thực tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Đông Nam châu Á và thế giới.

Trong niềm vui miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng chuẩn bị trở về Thủ đô. Ngày 19-9-1954, Người về thăm Đền Hùng, gặp gỡ và nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân Tiên phong chuẩn bị về tiếp quản Thủ đô. Người căn dặn:

“Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Đọc tiếp »


Chương 6: Lãnh đạo kháng chiến, kiến quốc (1945 – 1954)

11/12/2009

I- BẢO VỆ,  CỦNG CỐ VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ

Những ngày tưng bừng của Tổng khởi nghĩa Tháng Tám và lễ độc lập qua đi rất nhanh. Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á vừa được thành lập đã phải bước ngay vào cuộc đấu tranh quyết liệt cho sự tồn tại của mình. Để kiện toàn và củng cố lực lượng, chúng ta đã phải đối phó với tình hình cực kỳ phức tạp và vô vàn khó khăn: Nền kinh tế kiệt quệ, nạn đói khủng khiếp đã cướp đi sinh mạng của hai triệu người vẫn còn đang đe doạ; ngân khố trống rỗng (chỉ còn một triệu đồng bạc rách), trình độ văn hoá rất thấp kém, đa số nhân dân không biết chữ. Trong khi đó, thù trong giặc ngoài: ở miền Bắc, 20 vạn quân Tưởng, dưới danh nghĩa Đồng minh vào tước vũ khí quân đội Nhật, thực chất là muốn tiêu diệt Đảng Cộng sản, phá tan Việt Minh, lật đổ chính quyền nhân dân, lập chính phủ phản động làm tay sai cho Mỹ – Tưởng; ở miền Nam, núp sau bóng quân Anh, thực dân Pháp quay trở lại đánh chiếm nước ta một lần nữa; bọn phản động tay sai cũng nổi lên khắp nơi, tìm mọi cách cản trở cuộc kiến quốc của nhân dân ta.

Đứng trước vận mệnh của nước nhà như ngàn cân treo sợi tóc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận lấy trách nhiệm nặng nề trước nhân dân:

“Phận sự tôi như một người cầm lái, phải chèo chống thế nào để đưa chiếc thuyền Tổ quốc vượt khỏi những cơn sóng gió, mà an toàn đi đến bến bờ hạnh phúc của nhân dân”(1).

Đọc tiếp »