Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh – tư tưởng bất diệt

PGS.TS Lê Doãn Tá

Hồ Chí Minh quan niệm: Con người không phải là thần thánh, có cả cái tốt và cái xấu. Bởi vậy, phải “làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi”. Người yêu cầu phải thức tỉnh, tái tạo lương tâm, đánh thức những gì tốt đẹp trong con người.

Quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã hun đúc nên truyền thống nhân ái của dân tộc ta. Nhân dân ta đã trải qua mấy ngàn năm chinh phục thiên nhiên, chống thiên tai, bão lụt, khai hoang mở đất. Nhân dân ta lại phải chống chọi với nạn ngoại xâm liên miên từ phương Bắc xuống, rồi chủ nghĩa thực dân phương Tây xâm lược. Công cuộc lao động gian khổ và chiến đấu hy sinh hun đúc nên truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, trong đó nổi bật là lòng nhân ái, là tư tưởng nhân văn, nhân đạo.

Tình đoàn kết, yêu thương lẫn nhau “Bầu ơi thương lấy bí cùng”, “Thương người như thể thương thân” là nét đẹp nổi bật của con người Việt Nam, nhất là trong cơn hoạn nạn, rủi ro. Lòng nhân ái của từng người dân đã gắn chặt vận mệnh của họ với sự sống còn, tồn vong của dân tộc, với sự hùng cường, thịnh trị của Tổ quốc. Càng yêu con người, càng thương con người, càng có thêm ý chí kiên cường, bất khuất, dám xả thân, hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc; dám vươn lên để tìm con đường thoát cho dân tộc khỏi đói nghèo, xây dựng đất nước cường thịnh.

Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong lòng một dân tộc có truyền thống nhân ái lại tiếp nhận được những tinh hoa văn hoá phương Đông và phương Tây, về “đạo làm người” của Nho giáo, về “cứu khổ cứu nạn”, nhân ái, khoan dung của Phật giáo; về lý tưởng nhân văn thời cách mạng tư sản đang lên, chống phong kiến, giải phóng xã hội… Từ khi đến với chủ nghĩa Mác Lênin, thấm nhuần học thuyết nhân đạo hiện thực của chủ nghĩa Mác, tư tưởng nhân văn ở Hồ Chí Minh đã có những chuyển biến bước ngoặt mang tính tổng hợp từ nhiều giá trị tinh hoa của nhân loại. Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh đã trở thành lẽ sống của Người, yêu thương con người gắn với lòng tin ở con người, dùng sức của con người để giải phóng con người, trọng nhân tài, vì con người và phục vụ con người với chữ Người viết hoa.

Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh vô cùng rộng lớn. Có thể nêu lên mấy khía cạnh chủ yếu sau đây:

Một là, thương yêu con người, thương yêu nhân dân, hết sức bao la, thắm thiết. Người từng nói “Nghĩ cho cùng, mọi vấn đề… là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người phải là thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức”(1).

Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh xuất phát từ tình yêu thương của những người đồng cảnh ngộ, mất nước, bị nô lệ, cùng chung số phận bị áp bức bóc lột, đi tìm lối thoát cho dân tộc. Khi bôn ba nơi hải ngoại, chứng kiến cảnh bị áp bức bóc lột của công nhân, của nhân dân lao động các nước tư bản chủ nghĩa, chứng kiến cảnh bị áp bức của nhân dân các thuộc địa khác, tình yêu thương con người ở Người mở rộng sang yêu thương những người cùng cảnh ngộ, những người lao động nghèo đói, “cùng khổ, thiếu thốn”, những người thuộc các dân tộc khác có chung số phận với dân tộc Việt Nam. “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn… Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người”, Người đã từng nói như vậy.

Xuất phát từ tình yêu thương ấy mà Người đã đi tìm con đường giải phóng cho dân tộc, giải phóng khỏi mọi áp bức, bất công. Mục tiêu của Hồ Chí Minh đã từng nói rõ trong Lời ra mắt của báo Người cùng khổ (Le Paria) năm 1921: “đi từ giải phóng những người nô lệ mất nước, những người lao động cùng khổ đến giải phóng con người”.

Với mục tiêu được xác định, Người trở về nước thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách áp bức của thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Với đường lối đúng đắn mà Người đề ra, tập hợp xung quanh mình những nhân tài trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều độ tuổi, đoàn kết toàn dân tộc vào một Mặt trận thống nhất và tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của quốc tế, nhân dân ta đã đánh đuổi đế quốc thực dân, giải phóng dân tộc, nước ta hoàn toàn độc lập, thống nhất và xây dựng cuộc sống mới.

Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Người đã đề ra những nhiệm vụ cấp bách là diệt giặc đói và diệt giặc dốt cùng với việc chống giặc ngoại xâm. Trước mắt, phải xoá đói nghèo, làm cho kinh tế phát triển “làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu và người khá giàu thì giàu thêm”(2). Kinh tế có phát triển đời sống đồng bào có ấm no thì đất nước mới cường thịnh.

Người từng nói “Tôi thấy các cháu bụng ỏng, mắt choẹt, tôi hết sức đau lòng”. Người yêu cầu những người lãnh đạo chính quyền phải chăm lo đến đời sống nhân dân, phải chăm lo từ việc “tương cà mắm muối của dân”, không được ức hiếp quần chúng nhân dân.

Người chăm lo đến việc nâng cao dân trí, chống giặc dốt, xoá nạn mù chữ, phát triển giáo dục. Người từng nói “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Người yêu cầu Đảng cầm quyền phải chăm lo đến nâng cao trình độ học vấn cho nhân dân, chăm lo phát triển mọi mặt của dân tộc ta. Người thường nói chế độ thực dân đã dùng mọi thủ đoạn ngu dân để đầu độc dân tộc ta, để hủ hoá nhân dân ta bằng những thói xấu như lười biếng, gian xảo, tham ô…Cho nên phải làm sao để dân tộc Việt Nam trở thành một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động , một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập, “sánh vai với các cường quốc năm châu”.

Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh không chỉ giới hạn ở nhân dân Việt Nam mà là tình bác ái bao la. Người từng vạch rõ “Trừ bọn Việt gian bán nước, trừ bọn phát xít thực dân, là những ác quỷ mà ta phải kiên quyết đánh đổ, đối với tất cả những người khác thì ta phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ… Phải thực hành chữ bác – ái” (3).

Người còn nói “Lòng yêu thương của tôi đối với nhân dân và nhân loại không bao giờ thay đổi” và trước lúc vĩnh viễn đi xa, Người viết ” Đầu tiên là vấn đề con người” và “Cuối cùng tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế”.

Hai là, Bác Hồ tin tưởng vững chắc vào khả năng và phẩm giá tốt đẹp của con người. Hồ Chí Minh kế thừa tư tưởng kiệt xuất của các anh hùng, hào kiệt của dân tộc như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi… về sức mạnh của nhân dân: “Khoan thư sức dân để làm kế bền gốc, sâu rễ”; “đẩy thuyền cũng là dân, mà lật thuyền cũng là dân”. Người còn kế thừa tư tưởng nhân văn “lấy dân làm gốc” và chủ nghĩa nhân đạo hiện thực của học thuyết Mác để hình thành tư tưởng nhân văn mới, tin tưởng mãnh liệt vào sức mạnh, tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân và lòng tôn trọng, kính trọng nhân dân lao động.

Người nói “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân” (4).

Trong điều kiện bị đế quốc thực dân thống trị, kẻ thù đàn áp dã man, cùng với chính sách ngu dân của chúng, người dân các nước thuộc địa tưởng chừng không thể gượng dậy nổi, song Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh vẫn tin tưởng ở nhân dân mình, dân tộc mình”… đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến…” và “sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ cần phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”.

Trong quá trình đấu tranh, Người đã làm cho nhân dân thế giới nhận thức rõ vấn đề thuộc địa, đoàn kết giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc là giúp đỡ cho chính mình. Người nhận thấy rõ vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, “người là gốc của làng nước”, “nước lấy dân làm gốc”, “gốc có vững cây mới bền”, “xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” (5),

Người còn nói rằng: “Dân như nước, mình như cá”, “lực lượng nhiều là ở dân hết”. “Công việc đổi mới là trách nhiệm ở dân”. Do đó, Người yêu cầu “Đem tài dân, sức dân, của dân, làm lợi cho dân”. Ngày nay, nội dung trên càng có ý nghĩa lớn lao, bởi nếu chúng ta biết tiến cử nhân tài, dùng nhân tài đúng lúc, đúng chỗ, mạnh dạn cất nhắc nhân tài trong mọi lĩnh vực thì sẽ càng làm lợi cho dân.

Ba là, chăm lo bồi dưỡng, sử dụng, phát động sức mạnh của con người, của nhân dân. Xuất phát từ truyền thống yêu nước, thương dân bị nô lệ, Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Suốt cuộc đời của người là vì dân, vì nước.

“Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là nước được độc lập, tự do, nhân dân ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.

Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, tại cuộc họp đầu tiên của Uỷ ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ mục tiêu của Nhà nước là:

“1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành”.

Người còn nói “Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã tranh được rồi… Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(6).

Trong kháng chiến, kiến quốc, Người luôn chăm lo, bồi dưỡng sức dân. Vì dân, vì con người là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng của Người. Song ở Người, sự nghiệp đó chính là của nhân dân. Đoàn thể, Nhà nước phải là người tổ chức nhân dân, biết đem sức dân, tài của dân mà đem lại lợi ích cho nhân dân.

Do vậy, khi có chính quyền rồi, Người luôn nhắc nhở phải xây dựng bộ máy trong sạch, đấu tranh với những biểu hiện của thói quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu nhân dân; phải dựa vào nhân dân, khơi dậy sức mạnh tiềm tàng trong nhân dân để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng đời sống mới trong nhân dân…

Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện. Con người không phải là thần thánh, có cả cái tốt và cái xấu. Bởi vậy, theo Người phải “làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi”(7), Người yêu cầu phải thức tỉnh, tái tạo lương tâm, đánh thức những gì tốt đẹp trong con người.

Ngay cả những người đã lầm đường lạc lối, Hồ Chí Minh cũng tỏ rõ sự khoan dung, độ lượng: “Năm ngón tay cũng có ngón vắn, ngón dài. Nhưng vắn dài đều họp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ (8).

Cả cuộc đời của Người là một hình mẫu của con người nhân văn của thời đại mới. Trong con người Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa lòng yêu thương con người với lòng tin, sự tôn trọng và ý chí cùng hành động triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

(1) Hồ Chí Minh: Nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nxb.Pháp lý, H.1990, tr.174
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.CTQG, H.1995, t.5, tr.65
(3) Sđd, t.5, tr.644
(4) Sđd, t.8, tr.276
(5) Sđd, t.5, tr.410
(6) Sđd, t.4, tr.152
(7) Sđd, t.12, tr.558
(8) Sđd, t.4, tr.246

Bình luận về bài viết này